xem thêm
An Giang
Bình Dương
Bình Phước
Bình Thuận
Bình Định
Bạc Liêu
icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Không nên đồng nhất “thời hạn cho vay” và “kỳ hạn trả nợ”

Luật gia Đặng Minh Sự (Sở LĐ-TB-XH TPHCM)

So với Bộ Luật Dân sự hiện hành, dự thảo đã bỏ điều 468 (hình thức hợp đồng vay tài sản) và bổ sung thêm điều 463 (chơi hụi, họ, biêu, phường). Tuy nhiên, vẫn tồn tại những vấn đề liên quan đến hợp đồng vay tài sản nhưng dự thảo chưa đề cập.

Cụ thể ở điều 455, đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tiền hoặc vật. Theo định nghĩa tại điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 (đã sửa đổi bổ sung năm 2003) thì tiền tệ bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và các giấy tờ có giá trị như tiền. Về lý luận, định nghĩa này chỉ được giới hạn áp dụng trong Luật Ngân hàng Nhà nước. Liệu trong quan hệ pháp luật dân sự, khái niệm tiền mà hợp đồng vay tài sản đề cập có cùng định nghĩa hay không, khi thực tế đối tượng trong các giao dịch vay ngoài tiền mặt còn là ngân phiếu, trái phiếu, cổ phiếu... và nếu không thì liệu có cần thiết ghi nhận các đối tượng giao dịch là “giấy tờ có giá” trong Bộ Luật Dân sự?

Hệ thống pháp luật quốc gia là một chỉnh thể thống nhất. Các khái niệm từ ngữ, nếu đã được định nghĩa trong các văn bản pháp luật chuyên ngành thì cũng được hiểu cùng nội dung trong các văn bản pháp luật khác. Về nguyên tắc, một khi Luật Ngân hàng Nhà nước đã định nghĩa tiền tệ bao gồm cả các giấy tờ có giá thì khái niệm tiền trong Bộ Luật Dân sự cũng bao gồm luôn các đối tượng này. Vì thế, không cần thiết phải ghi nhận giấy tờ có giá vào đối tượng của hợp đồng vay vì đã hàm chứa trong khái niệm tiền tệ. Tuy nhiên, để bảo đảm tính rõ ràng của văn bản, Bộ Luật Dân sự cũng nên viện dẫn, có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp.

Việc sử dụng cụm từ “hợp đồng vay có kỳ hạn” và “hợp đồng vay không có kỳ hạn” trong dự thảo cũng có sự khác biệt so với việc giải thích hai cụm khái niệm này trong Luật Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể ở khoản 2 và 3 điều 3 định nghĩa: “Thời hạn cho vay là một khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng”, và “Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng”.

Như vậy, về mặt ngôn từ thì thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ có điểm giống nhau: đều là căn cứ để xác định thời điểm bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Nhưng thực tế bản chất hai khái niệm này có những điểm khác nhau. Vì thời hạn cho vay là một thời gian, còn kỳ hạn là các khoảng thời gian nằm trong thời hạn cho vay đó. Khi hết thời hạn cho vay, bên vay phải trả hết nợ gốc và lãi, còn đến kỳ hạn trả nợ thì bên vay có thể chỉ phải trả một phần trong toàn bộ tài sản vay. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về kỳ hạn thì thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ là trùng nhau. Nhưng nếu các bên có thỏa thuận khác về kỳ hạn trả nợ thì hai thời điểm này hoàn toàn khác nhau. Do vậy, việc đồng nhất hai khái niệm này là chưa chính xác và cần được sửa đổi.

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo