Chính phủ đã ban hành Nghị định 76/2023 quy định chi tiết một số điều của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Trong đó, nêu rõ quy trình tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình.
Quy trình tiếp nhận, xử lý tin báo bạo lực gia đình
Nghị định nêu rõ, Tổng đài điện thoại quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình sử dụng số điện thoại ngắn có 3 chữ số để tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình.
Tổng đài hoạt động 24 giờ tất cả các ngày để tiếp nhận tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình.
Nghị định cũng nêu rõ quy trình tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về hành vi bạo lực gia đình qua địa chỉ quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 19 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.
Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam bị bạo lực gia đình được bố trí nơi tạm lánh và hỗ trợ nhu cầu thiết yếu. Họ được chăm sóc, điều trị; trợ giúp pháp lý và tư vấn tâm lý, kỹ năng để ứng phó với hành vi bạo lực gia đình theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản 1 Điều 22 của Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.... Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 25-12-2023.
Giao dịch có giá trị từ 400 triệu đồng trở lên phải báo cáo
Theo Quyết định 11/2023 thay thế Quyết định 20/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 1-12-2023, các giao dịch có giá trị từ 400 triệu đồng trở lên phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước.
Quyết định này quy định mức giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Luật Phòng, chống rửa tiền (Thủ tướng Chính phủ quyết định mức giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ).
Đối tượng báo cáo là tổ chức tài chính, tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành nghề phi tài chính có liên quan quy định tại khoản 1, 2 Điều 4 Luật Phòng, chống rửa tiền 2022.
Người dân khám bệnh BHYT
Quy định mới về mức thu lệ phí cấp giấy phép lái xe qua mạng
Ngày 16-10-2023, Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư 63/2023/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về phí, lệ phí nhằm khuyến khích sử dụng dịch vụ công trực tuyến. Thông tư có hiệu lực kể từ ngày 1-12-2023.
Đáng chú ý, mức thu phí, lệ phí trường hợp tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ đề nghị cấp mới, cấp lại, cấp đổi giấy phép lái xe (quốc gia và quốc tế) theo hình thức trực tuyến kể từ ngày 1-12-2023 đến hết 31-12-2025 áp dụng mức thu lệ phí là 115.000 đồng/lần cấp.
Kể từ ngày 1-1-2026 trở đi, áp dụng mức thu lệ phí quy định tại Biểu mức thu phí, lệ phí ban hành kèm theo Thông tư 37/2023/TT-BTC.
Bổ sung thêm nhóm đối tượng được cấp thẻ BHYT miễn phí
Nghị định 75/2023 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 146/2018 có hiệu lực kể từ ngày 3-12-2023, trong đó bổ sung nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước đóng bảo hiểm y tế (BHYT).
Theo đó, Nghị định 75/2023 bổ sung nhóm đối tượng được ngân sách Nhà nước đóng BHYT là: Người dân các xã an toàn khu, vùng an toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hiện đang thường trú tại các xã an toàn khu cách mạng đã được cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Cũng theo Nghị định này, sẽ bổ sung thêm đối tượng được hưởng bảo hiểm y tế 100% và 95%.
Trong đó, bổ sung 2 đối tượng hưởng 100% chi phí khám bệnh, chữa bệnh gồm: Người tham gia kháng chiến và bảo vệ Tổ quốc; người dân xã an toàn khu, vùng an toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hiện đang thường trú tại các xã an toàn khu trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã được cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Bên cạnh đó, bổ sung 3 đối tượng hưởng 95% chi phí khám bệnh, chữa bệnh gồm: Vợ/chồng liệt sĩ lấy chồng/vợ khác đang hưởng trợ cấp hằng tháng theo trường hợp nuôi con liệt sỹ đến tuổi trưởng thành, hoặc chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sỹ khi còn sống, hoặc vì hoạt động cách mạng mà không có điều kiện chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sỹ khi còn sống.
Người phục vụ người có công đang sống ở gia đình bao gồm: Người phục vụ Bà mẹ Việt Nam anh hùng; người phục vụ thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học tổn thương từ 81%.
Người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại địa bàn các xã khu vực II, III, thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016-2020 mà các xã này không còn trong danh sách các xã khu vực II, III, thôn đặc biệt khó khăn thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025.
Bình luận (0)