Tại họp báo Chính phủ thường kỳ tháng 9, báo chí nêu vấn đề với lãnh đạo Bộ Nội vụ: Thời gian qua, có vấn đề cán bộ công chức, viên chức nghỉ việc ở nhiều bộ ngành, địa phương, Bộ Nội vụ có đề nghị các bộ, ngành, địa phương báo cáo tình hình. Vậy đến thời điểm hiện tại các bộ, ngành địa phương có báo cáo chi tiết số lượng cán bộ, công chức viên chức nghỉ việc vừa qua là bao nhiêu, bộ,ngành nào nghỉ nhiều nhất, nguyên nhân là gì?
Trong 2,5 năm, có 39.552 cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc. Bình quân 1 năm có khoảng 15.820 cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc. Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng cho biết: Đây là vấn đề dư luận xã hội quan tâm. Đặc biệt là báo cáo của Bộ Y tế với Tổng Liên đoàn Lao động về số lượng 9.397 nhân viên y tế bỏ việc, thôi việc, chuyển từ khu vực công ra khu vực tư trong 1năm rưỡi qua (tính trong năm 2021 và 6 tháng năm 2022).
Trong bối cảnh dịch COVID-19 năm 2020-2021 phát sinh nhiều khó khăn, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều giải pháp hỗ trợ người khó khăn, ảnh hưởng dịch bệnh, liên quan đến việc làm, đời sống. Trên tinh thần đó, Bộ Nội vụ có báo cáo Thủ tướng có văn bản gửi các bộ, ngành địa phương đề nghị các đơn vị báo cáo lại số liệu trong 2,5 năm từ năm 2020 đến 6 tháng 2022.
Thời điểm này, Bộ Nội vụ nhận được được báo cáo của 28 cơ quan Trung ương, 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương. Kết quả là trong 2,5 năm, có 39.552 cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc, chiếm 2% tổng số biên chế được giao. Như vậy, tính bình quân 1 năm có khoảng 15.820 cán bộ, công chức, viên chức nghỉ việc. Tỉ lệ nghỉ việc so với tổng biên chế được giao là 0,8%, trong đó ở Trung ương chiếm 18%, địa phương là 82%. Trong 39.552 nghỉ việc có hơn 4.000 công chức, hơn 35.000 viên chức. Số nghỉ việc trong ngành giáo dục hơn 16.400 người, ngành y tế là 12.198 người ….
Có thể nói, ngoài y tế, ngành giáo dục cũng có tỷ lệ nghỉ việc nhiều do áp lực, thu nhập, có thể phân thành các nguyên nhân có khách quan, chủ quan. Về nguyên nhân khách quan, nguyên nhân đầu tiên, Việt Nam có nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó có thị trường lao động, phát triển thị trường lành mạnh, khu vực công sang khu vực tư, xuất khẩu lao động đều là liên thông. Nền kinh tế nhiều thành phần, khu vực công- tư có sự cạnh tranh lao động…
Nguyên nhân thứ hai là xã hội hóa, tự chủ đơn vị sự nghiệp. Theo các quy định của luật cán bộ, công chức, viên chức, các Nghị định của Chính phủ, Nghị quyết Trung ương, nếu đơn vị sự nghiệp tự chủ quản trị như doanh nghiệp, nhiều đơn vị có chế độ ký hợp đồng thì việc ra vào khu vực công - tư là thường xuyên….
Về nguyên nhân chủ quan, thứ nhất, Trung ương, Chính phủ có nhiều Nghị quyết nâng cao chế độ chính sách tiền lương, nhưng chế độ chính sách còn nhiều khó khăn so với nhu cầu cuộc sống.
Bộ Nội vụ cùng Bộ Tài chính, các cơ quan liên quan đã báo cáo Chính phủ căn cứ tốc độ tăng trưởng kinh tế, báo cáo Trung ương, Bộ Chính trị, Quốc hội xem xét tăng lương thế nào cho phù hợp. Thứ hai, công tác quy hoạch cán bộ, đặc biệt với đội ngũ chuyên gia chưa tốt, nhiều người có kiến thức chuyên môn, năng lực giỏi sang làm việc tại khu vực tư với nhiều chính sách thu hút.
Thứ ba, thực hiện các Nghị quyết, chủ trương của Đảng, Chính phủ về sắp xếp, tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ, nên tại các cơ quan, đơn vị, khối lượng công việc gia tăng, tạo sức ép cho người lao động.
Thứ tư, là do chủ quan, môi trường, điều kiện làm việc tại một số khu vực công chưa thật sự hấp dẫn, tạo cơ hội để cán bộ, công chức, viên chức phát huy tốt năng lực. Nguyên nhân thứ năm là về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của cán bộ, công chức, viên chức.
Ngoài ra, nghỉ việc, chuyển việc còn vì lí do cá nhân, muốn thử sức, thay đổi công việc từ khu vực công sang tư, thay đổi định hướng nghề nghiệp…
Bình luận (0)