Sáng 8-8, Tổng LĐLĐ Việt Nam công bố kết quả khảo sát tình hình đời sống, việc làm, tiền lương của người lao động năm 2023. Cuộc khảo sát cho Ban Chính sách - Pháp luật và Viện Công nhân và Công đoàn phối hợp thực hiện.
TS Phạm Thị Thu Lan, Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, thay mặt nhóm nghiên cứu công bố kết quả khảo sát. Ảnh: Văn Duẩn
Có 27,5% NLĐ làm việc trong ngành dệt may; 16,9% NLĐ làm việc trong ngành điện, điện tử; 7,3% làm việc trong ngành thương mại; 5,7% làm việc trong ngành chế biến nông lâm thủy sản; 4,4% làm việc trong ngành da giày và 38,1% làm việc trong các ngành khác như cơ khí, giao thông vận tải, xây dựng.
Trong số 2.982 phiếu khảo sát NLĐ có 62,9% NLĐ thuộc vùng 1; 12,3% thuộc vùng 2; 16,4% thuộc vùng 3 và 8.4% thuộc vùng 4.
Thay mặt nhóm nghiên cứu công bố kết quả khảo sát, TS Phạm Thị Thu Lan, Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, cho biết có 52,3% NLĐ có làm thêm giờ, số ngày làm thêm giờ trung bình 1 tháng là 10,71 ngày; số giờ làm thêm trung bình 1 ngày là 1,75 giờ. Bên cạnh đó, có 76,2% NLĐ tham gia khảo sát "tình nguyện" làm thêm giờ để kiếm thêm thu nhập, cải thiện cuộc sống, thời gian làm thêm giờ trung bình mong muốn là 47,3 giờ/tháng.
TS Phạm Thị Thu Lan, Phó Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn, thay mặt nhóm nghiên cứu công bố kết quả khảo sát
Tiền lương cơ bản hàng tháng của NLĐ (làm đủ giờ công, ngày công, không bao gồm tiền làm thêm giờ) nhận được trung bình là khoảng 6 triệu đồng (tăng 8,4% so với khảo sát tháng 3-2022).
Mức lương cơ bản này cao hơn tiền lương tối thiểu từ 37,5% đến 51,9% (tùy theo từng vùng). Còn 3,5% NLĐ nhận được mức lương cơ bản thấp hơn mức lương tối thiểu vùng
Về thu nhập, thu nhập trung bình của 2.982 NLĐ khảo sát đạt hơn 7,8 triệu đồng/tháng, trong đó tiền lương cở bản chỉ chiếm 76,7% thu nhập hàng tháng của họ, 23,3% khác đến từ tiền làm thêm giờ và các khoản trợ cấp, phụ cấp của DN;
Có 52,3% NLĐ có làm thêm giờ, số tiền nhận được trung bình hơn 1,3 triệu đồng/người/tháng (chiểm 17,1% thu nhập trung bình của người lao động).
Chỉ có 24,5% NLĐ cho biết tiền lương và thu nhập chỉ vừa đủ đáp ứng 100% chi tiêu cho cuộc sống; còn lại 75,5% người trả lời cho biết thu nhập hiện tại không đáp ứng đủ thu nhu cầu chi tiêu của họ, thạm trí, có trường hợp thu nhập chỉ đáp ứng được 45% nhu cầu chi tiêu.
TS Phạm Thị Thu Lan cho biết chỉ có 8,1% NLĐ có dự dật tích lũy từ tiền lương và thu nhập; 11,2% không thể đủ sống và ngoài thời gian làm việc tại DN họ phải làm thêm việc khác để kiếm thêm thu nhập.
"Có 17,3% NLĐ phải thường xuyên vay nợ dẫn đến 3,1% NLĐ thường xuyên bị đe dọa, khủng bố và 45,2% người vay nợ có tâm trạng lo lắng bất an"- bà Lan cho hay.
Tiền lương là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quyết định lập gia đình của 53,7% NLĐ và quyết định con của 72,0% NLĐ.
Có tới 17,6% NLĐ không sống cùng con dưới 18 tuổi vì lý do tiền lương thấp và 2,2% NLĐ chưa từng mua sữa công thức cho con dưới 6 tuổi và chỉ có 37,7% NLĐ có tiền lương đủ để đảm bảo 100% nhu cầu học tập của con.
Chỉ có 26,2% NLĐ có điều kiện để ăn thịt, cá trong các bữa ăn hàng ngày; 10,3% NLĐ tham gia khảo sát cho biết với thu nhập hiện nay họ ít khi (1 lần/tuần) có điều kiện để ăn thịt, cá trong bữa ăn tại gia đình.
Có tới 46,5% NLĐ chỉ đủ tiền để mua một số loại thuốc cơ bản để chữa bệnh và còn tới 6,3% cho biết thu nhập hiện tại hoàn toàn không đủ cho họ mua thuốc và khám chữa bệnh và 6,5% NLĐ cho biết họ không làm gì cả vẫn đi làm bình thường và để bệnh tự khỏi.
NLĐ ở vùng 1 phải bỏ ra một khoản tiền trung bình là 1,8 triệu đồng/tháng (bao gồm cả điện nước), số tiền này chiếm 23,6% tiền lương và 17,9% thu nhập hàng tháng của NLĐ.
Có 12,3% NLĐ đã từng rút BHXH một lần, số lần rút trung bình là 1,13 lần. trong đó người rút nhiều nhất là 4 lần và người rút thấp nhất là 1 lần.
Bình luận (0)