Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) Hoàng Minh Sơn vừa ký Thông tư số 23/2021/TT-BGDĐT ban hành Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ với nhiều quy định mới.
Quy chế mới bổ sung phương thức tuyển sinh và giao quyền tự chủ cho các cơ sở đào tạo. Theo đó, các trường quyết định tuyển sinh theo 3 phương thức: Thi tuyển, xét tuyển và kết hợp thi tuyển và xét tuyển.
Quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ mới cho phép công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ
Quy chế cho phép thi tuyển theo hình thức trực tuyến khi đáp ứng điều kiện bảo đảm chất lượng để kết quả đánh giá tin cậy, công bằng như đối với tuyển sinh trực tiếp. Hình thức này giúp tuyển sinh không bị gián đoạn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh và các vấn đề bất khả kháng khác.
Điểm mới nổi bật của quy chế là công nhận kết quả học tập và chuyển đổi tín chỉ nhằm liên thông giữa các trình độ giáo dục đại học. Theo đó, người học được xem xét công nhận và chuyển đổi tín chỉ của một số học phần khi đã học một chương trình đào tạo thạc sĩ khác hoặc đã tốt nghiệp một chương trình đào tạo chuyên sâu đặc thù. Số tín chỉ được công nhận và chuyển đổi không vượt quá 30 tín chỉ.
Sinh viên đang học chương trình đào tạo đại học (hoặc trình độ tương đương trở lên) có học lực tính theo điểm trung bình tích lũy xếp loại khá trở lên và các điều kiện khác do cơ sở đào tạo quy định có thể được đăng ký học trước một số học phần của chương trình đào tạo thạc sĩ tại cùng cơ sở đào tạo. Số tín chỉ được công nhận không vượt quá 15 tín chỉ.
Những học phần được xét công nhận và chuyển đổi tín chỉ khi đáp ứng chuẩn đầu ra, yêu cầu về giảng viên, khối lượng học tập và các yêu cầu khác của học phần trong chương trình đào tạo thạc sĩ, điểm đánh giá đạt từ điểm C (hoặc quy đổi tương đương) trở lên. Thời điểm hoàn thành không quá 5 năm tính tới thời điểm xét công nhận, chuyển đổi.
Theo đánh giá của các chuyên gia, điểm mới này tạo điều kiện cho việc trao đổi học thuật trong nước và với nước ngoài cũng như tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo ở các trình độ giáo dục đại học liên thông với trình độ thạc sĩ. Không chỉ vậy, quy định này được đánh giá phù hợp, linh hoạt và tiết kiệm thời gian cho sinh viên có thành tích học tập vượt trội.
Cũng theo quy chế mới, các trường chỉ được phép đào tạo thạc sĩ tại trụ sở chính hoặc phân hiệu của mình. Các hoạt động thực hành, thực tập, nghiên cứu và trải nghiệm thực tế được tổ chức ngoài cơ sở đào tạo không quá 20% khối lượng chương trình đào tạo.
Về hình thức đào tạo, quy chế bổ sung hình thức vừa làm vừa học cho chương trình định hướng ứng dụng. Thời gian đào tạo toàn khóa học đối với hình thức đào tạo vừa học vừa làm phải dài hơn ít nhất 20% so với hình thức đào tạo chính quy của cùng chương trình đào tạo. Để tránh trường hợp học dồn bất hợp lý, quy chế quy định tổng số tín chỉ đăng ký tối đa trong một năm học không quá 45 tín chỉ với hình thức chính quy và không quá 30 tín chỉ với hình thức vừa làm vừa học.
Về phương thức đào tạo trực tuyến, quy chế cho phép đào tạo trực tuyến không quá 30% khối lượng tín chỉ của chương trình đào tạo. Quy chế cũng cho phép đánh giá trực tuyến với điều kiện bảo đảm sự tin cậy, công bằng và khách quan như đánh giá trực tiếp, đóng góp không quá 50% trọng số điểm học phần.
Trường hợp thiên tai, dịch bệnh và bất khả kháng khác, công tác đào tạo và đánh giá trực tuyến các học phần thực hiện theo hướng dẫn của Bộ GD-ĐT.
Theo quy chế mới, người hướng dẫn phải có trình độ tiến sĩ trở lên, chuyên môn phù hợp với ngành đào tạo và đề tài luận văn của học viên. Một trong hai người hướng dẫn phải là giảng viên cơ hữu của cơ sở đào tạo. Tại một thời điểm, một người hướng dẫn tối đa 5 học viên.
Đối với luận văn, đề án, quy chế mới yêu cầu phải tăng cường liêm chính học thuật; giám sát và kiểm soát việc chống sao chép; xây dựng chế tài, nghiêm túc xử lý khi có vi phạm; bảo đảm tính trung thực của nội dung luận văn, đề án và chuyên đề nghiên cứu khác.
Chuẩn đầu ra ngoại ngữ ở trình độ thạc sĩ thực hiện theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam. Học viên phải đạt trình độ ngoại ngữ Bậc 4 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, thể hiện bằng các minh chứng như văn bằng, chứng chỉ ngoại ngữ.
Bình luận (0)