Biểu hiện của các bệnh lây truyền qua đường tình dục rất khác nhau, có những bệnh thể hiện lâm sàng ồ ạt (cấp tính) và có những thể bệnh không ồ ạt (mạn tính) và có cả những thể bệnh không có triệu trung lâm sàng hoặc chi thể hiện rất nhẹ và hiếm khi có tình huống đặc biệt như giao hợp đau, đau khi xuất tinh hoặc hiếm muộn, nghĩa là giảm khả năng thụ thai một cách âm thầm, trong đó phải kể đến nguyên nhân hiếm muộn do chlamydia trachomatis được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt chú ý vì những tổn thương vĩnh viễn ở vòi trứng (như tắc vòi trứng) không song song với các dấu hiệu lâm sàng và trong các nguyên nhân gây vô sinh thì chỉ có các yếu tố gây tắc vòi trứng lây là có thể đề phòng được mà chlamydia lại giữ vai trò chính trong viêm tắc vòi trứng. Vậy cơ chế chlamydia gây tổn thương ở vòi trứng như thế nào lại chưa được nghiên cứu đầy đủ và do đó chưa hiểu rõ ý định phòng bệnh bằng một vắc-xin do đó đã nảy sinh và coi là một yêu cầu lớn, đồng thời với việc giáo dục nhằm giảm nguy cơ nhiễm bệnh cho những người trẻ với tất cả các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục và tạo điều kiện giảm cả HIV/AIDS.
Các nghiên cứu cho thấy: Hành vi tình dục của giới trẻ ngày nay đang thay đổi theo chiều hướng tăng nguy cơ hơn trước, tuổi bắt đầu sinh hoạt tình dục giảm xuống (có kinh sớm hơn và xuất tinh cũng sớm hơn). Tuổi lập gia đình tăng lên. Quan hệ tình dục ngoài hôn nhân cũng tăng lên nhanh chóng và còn thác loạn dẫn đến lây lan bệnh nhanh hơn, đến mức báo động toàn cầu và rất nguy hiểm cho giới trẻ. Cũng vì thế mà các bệnh lây truyền qua đường tình dục được chú ý hơn trước: số lần nhiễm bệnh tăng, số bệnh nhân tăng, số phá thai của vị thành niên tăng. Ngoài ra, việc phá thai không an toàn và nhiễm chlamydia làm tổn thương vòi trứng không hồi phục trong tuổi vị thành niên sẽ ảnh hưởng nguy hại đến khả năng thụ thai ở lứa tuổi trưởng thành (tuổi sinh đẻ). Tỉ lệ hiếm muộn và vô sinh do đó tăng thêm nhiều. Thống kê về khả năng thụ thai tự nhiên của các cặp vợ chồng khỏe mạnh như sau: 75% thụ thai trong 6 tháng đầu tiên: 90% sau 1 năm và 95% sau 2 năm với điều kiện không dùng một biện pháp tránh thai nào nhưng nếu viêm phần phụ hoặc vòi trứng thì khả năng thụ thai tự nhiên giảm nhiều (cứ cặp vợ chồng thì một cặp không có thai được trong năm đầu).
Bằng các xét nghiệm miễn dịch và lâm sàng cho thấy chlamydia gây viêm vòi trứng chiếm tới 1/3 số bệnh nhân viêm phần phụ, bệnh cảnh do chlamydia gây ra thường biểu hiện bằng niêm dịch cổ tử cung nhiều và giống như mủ, viêm nội mạc tử cung và viêm phần phụ. Mủ niêm dịch cổ tử cung mà trước đây xếp vào loại không rõ nguyên nhân (khí hư mủ) là nguyên nhân gây viêm niệu đạo của đàn ông. Loại lây nhiễm này gây khó khăn cho chẩn đoán. Khi có viêm nội mạc tử cung do chlamydia thì vòi trứng và phần phụ rất dễ bị viêm lan lên. Khi vòi trứng đã bị tổn thương thì nguyên nhân chửa ngoài tử cung tăng lên 6-10 lần.
Phát hiện nhiễm chlamydia ở những bệnh nhân vô sinh không khó vì có thể dùng huyết thanh chẩn đoán vừa nhanh vừa dễ làm, kháng thể của chlamydia tồn tại nhiều năm nên ngay cả những tổn thương cũ do nhiễm chalamydia gây tổn thương ở vòi trứng đã lâu vẫn có thể phát hiện được bằng chuẩn độ chlamydia, miễn dịch huỳnh quang.
Tình dục an toàn và giảm tỷ lệ phá thai hút thai, ở vị thành niên là biện pháp phòng bệnh tốt nhất đối với nhiễm chlamydia và các hậu quả tổn thương ở vòi trứng.
Bình luận (0)