Có hai nguyên nhân gây nên hiện tượng này. Thứ nhất là do chức năng giao tiếp và chức năng cảm xúc diễn ra ở hai vùng não hoàn toàn khác nhau và thứ hai là sự không tương thích về mặt tốc độ hoạt động của hai vùng não này. Thông thường xử lý hội thoại diễn ra rất nhanh với tốc độ phần triệu giây, trong khi đó quy trình cảm xúc (bao gồm cả việc kích thích cơ thể tiết ra các hóa chất) chỉ diễn ra theo từng giây hay thậm chí theo từng phút. Bạn thoáng nhớ đến một chuyện buồn bực nào đó rồi nhanh chóng gạt bỏ ngay ra khỏi đầu, các thùy não trước có thể phản ứng và trở lại trạng thái bình thường ngay sau đó, nhưng hệ đều khiển cảm xúc thì vẫn hoạt động và do đó, chất cortisol tiếp tục di chuyển thêm gần 30 giây nữa trong các mạch máu. Đây cũng chính là nguyên nhân giải thích tại sao cảm giác khó chịu vẫn còn lại dù bạn đã loại khỏi đầu suy nghĩ về một chuyện không vui nào đó.
Tương tự, khả năng chú ý và tập trung của con người cũng là một quá trình phức tạp, là kết quả của sự kết hợp đồng bộ cùng lúc của nhiều chức năng não. Mọi người thuờng đánh giá trẻ con không có hoặc ít có khả năng tập trung, nhưng theo nghiên cứu của giáo sư tâm lý John Rodenbough thì thực tế không hoàn toàn như vậy. Về căn bản, khả năng tập trung của não được quy định bởi 5 giác quan là thính giác, thị giác, khứu giác, xúc giác và vị giác. Nhưng để xác định chính xác mức độ tập trung của mỗi người thì ngoài việc đánh giá khả năng hoạt động của cả 5 giác quan trên còn phải xem xét quy trình xử lý thông tin của não (gồm hai bước: Xác nhận và mã hóa thông tin).
Xác nhận thông tin là khả năng nhớ về đồ vật hay một công việc nào đó đã từng được nhìn hoặc thực hiện trước đó. Trong thế giới quanh ta có vô số thông tin đó nạp vào óc, nhưng vấn đề không nằm ở khả năng tiếp nhận mà là khả năng xác nhận và chắt lọc thông tin của não. Nói theo cách khác là thói quen ôm đồm (chú ý đến tất cả mọi việc diễn ra quanh mình) sẽ chỉ khiến não sớm bị kiệt sức.
Mã hóa thông tin là khả năng ghi nhập các dữ liệu mới vào bộ nhớ. Để làm được việc này, độ nhạy cảm của các giác quan đóng vai trò rất quan trọng. Chẳng hạn để ghi nhớ một số điện thoại mới), trước hết bạn phải được nghe đọc, sau đó não mới thực hiện tiếp việc mã hóa và sắp xếp lưu giữ thông tin. Tuy nhiên, khả năng ghi nhớ và mã hóa thông tin của não người không phải là vô hạn. Ngoại trừ một số truờng hợp đặc biệt, nhìn chung não chỉ có thể phân biệt và nhớ được khoảng 7 biệt điểm (cộng trừ 2). Có thể bạn nhớ lại được rất nhiều thông tin, từ số điện thoại, khuôn mặt đến giai điệu của một bài hát ưa thích... nếu đó là những thông tin đã được lưu giữ trong vùng trí nhớ dài hạn. Nhưng khi tiếp nhận một thông tin mới, nhất là với những thông tin có nhiều hơn 7 đặc điểm, vùng trí nhớ vận hành sẽ có nguy cơ bị “quá tải”. Không phải ngẫu nhiên khi hầu hết các số điện thoại đều có cấu tạo gồm 7 chữ số, bởi các công ty điện thoại buộc phải tính đến khả năng nhớ tối đa của một người bình thường. Khi cố ghi nhớ một dãy số dài (hơn 7 con số), bạn sẽ thấy có hiện tượng nhớ được các số sau thì quên mất các con số đầu.
Hiện nay các nhà thần kinh học cũng đang hướng tới việc sử dụng phương pháp quan sát dao động của các sóng điện từ do não phát ra như alpha, delta, theta và beta. Đây là các sóng biểu hiện trạng thái ý thức của não tại từng thời điểm ứng với từng tình uống cụ thể nên việc nghiên cứu các sóng này sẽ giúp các nhà khoa học tìm ra phương pháp đánh giá chuẩn xác và cải thiện nhanh nhất các chức năng não bị yếu kém. Đó chính là phương pháp hồi tiếp thần kinh.
Wes Sime, giáo sư thể chất và thành tích thi đấu Truờng Đại học Thể dục thể thao Nebraska Lincoln, đã sử dụng phương pháp hồi tiếp thần kinh trong các nghiên cứu của mình đối với các vận động viên điền kinh. Ý niệm đầu tiên của ông về vấn đề này nảy sinh từ sau đợt điều trị phục hồi cho một vận động viên lặn bị chấn thương lưng. Sau loạt bài tập luyện hướng suy nghĩ, sự tập trung của người bệnh về khả năng phục hồi vận động, bệnh nhân đã có những biểu hiện phục hồi nhanh chóng và đã có thể hoàn toàn vận động trở lại, thậm chí khả năng lặn còn tốt hơn trước. Còn trong cuộc thử nghiệm phân tích sóng não của các vận động viên chơi golf, ông lại phát hiện ra mối liên hệ giữa một số dạng sóng não với kết quả thực hiện quả đánh bóng. Theo đó, ở thời điểm thực hiện những cú đánh bóng thành công (thể hiện mức độ tập trung cao), sóng não có dạng dao động nhẹ nhưng liên tục.
Có ý kiến từng cho rằng con người mới chỉ sử dụng được khoảng 10% chức năng của bộ não. Vậy thì phải chăng trí thông minh kiệt sức chỉ đạt được khi sử dụng hết 100% não bộ? Nghiên cứu cho thấy không bao giờ con người có thể sử dụng được hết 100% bộ não cùng một lúc. Tại mỗi thời điểm, trong mỗi công việc nhất định chúng ta chỉ vận động một vùng nhỏ trong não. Đó là vùng não điều khiển chịu trách nhiệm liên quan đến loại hình hoạt động đang thực hiện. Còn các vùng não khác thì được ở trong trạng thái nghỉ ngơi”. Vì thế, tỉ lệ 10% là mức độ lý tưởng thể hiện hiệu quả hoạt động của bộ não chứ không phải là biểu hiện của tình trạng hoạt động “dưới công suất".
Phương pháp hồi tiếp thần kinh giúp con người thay đổi một số quan niệm và hiểu sâu rộng hơn về các hoạt động của bộ não. Qua phương pháp này, người bệnh sẽ học được cách từng bước nhận biết và điều khiển hệ hóa học thần kinh trong não. Tức là biết cách kích hoạt một số vùng não trong khi lại “ru ngủ" một vài vùng não khác. Cùngvới những tiến bộ đạt được trong lĩnh vực khoa học thần kinh và các công nghệ chụp hình não, sự ra đời của phương pháp hồi tiếp sinh học sẽ giúp các nhà khoa học có thể hiểu rõ hơn cơ chế hoạt động của cơ quan được đánh giá là phức tạp và bí hiểm nhất trong cơ thể người.
Bình luận (0)