Nghề nuôi và khai thác nghêu ở các bãi bồi ven biển là nguồn sinh kế quan trọng đối với cộng đồng dân cư ven biển. Đó là thông tin tại hội thảo “Mối liên hệ giữa rừng ngập mặn và nguồn lợi nghêu”, do Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế (IUCN) thông qua Sáng kiến rừng ngập mặn cho tương lai (MFF) phối hợp cùng Viện Sinh học nhiệt đới (ITB) vừa tổ chức tại TP HCM.
Rừng ngập mặn có hệ sinh thái đóng vai trò quan trọng trong việc khai thác nghêu. PGS-TS Hoàng Nghĩa Sơn, Viện trưởng Viện Sinh học nhiệt đới, cho biết năng suất nghêu nuôi (kg/m2) không chỉ phụ thuộc vào cao trình bãi và tỉ lệ cát mà còn phụ thuộc vào hàm lượng chất dinh dưỡng tại bãi. Tất cả yếu tố này được cung cấp bởi rừng ngập mặn thông qua việc phân phối dòng chảy lòng dẫn và dòng chảy tràn, giảm thiểu sự bào mòn, xói lở bãi triều. Chuyển hóa vật chất hữu cơ thành thức ăn tươi sống cho nghêu sò. Giảm thiểu ô nhiễm hữu cơ sinh hoạt, nuôi trồng thủy sản và sản xuất nông nghiệp. Do đó, việc chăm sóc, trồng và bảo vệ rừng ngập mặn là giải pháp quan trọng để bảo tồn, phát triển nguồn lợi nghêu.
Giữa bên hưởng lợi và bên cung cấp dịch vụ môi trường cần có sự bù đắp thông qua cơ chế kinh tế nhằm tạo ngân sách trong việc đầu tư, phục hồi và duy trì bền vững các giá trị hệ sinh thái rừng ngập mặn. Có cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng. Tuy nhiên, để cơ chế này hoạt động hiệu quả, cần phải có các nghiên cứu làm rõ mối quan hệ, cũng như tính toán cụ thể các lợi ích, chức năng của rừng đối với nguồn lợi nghêu.
TS Andrew Waytt, phụ trách chương trình đồng bằng sông Mê Kông - IUCN Việt Nam, cho rằng trong quá trình xây dựng chính sách, thực hiện chi trả dịch vụ môi trường từ rừng ngập mặn, cộng đồng khai thác nguồn lợi nghêu là một trong những đối tượng tiềm năng được áp dụng phí dịch vụ môi trường này. Tuy nhiên, một số hộ nuôi nghêu cho rằng họ chưa thấy được lợi ích từ rừng ngập mặn.
PGS-TS Bùi Văn Lai, Viện Sinh học nhiệt đới, cho rằng ở Việt Nam hầu như chưa có công trình nào đánh giá vai trò của rừng ngập mặn trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ nội đồng. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nguồn ô nhiễm nước ven biển là từ nước sinh hoạt đô thị, đặc biệt là từ nghề nuôi tôm nước lợ. Thống kê trong năm 2012 cho thấy có đến 47.603 ha nuôi tôm thâm canh và bán thâm canh, 304.676 ha quảng canh và 206.844 ha tôm lúa, 70.528 ha nuôi tôm trong rừng.
TS Nguyễn Minh Đức, Trường Đại học Nông Lâm TP HCM, cho biết có nhiều rủi ro trong nghề nuôi nghêu. Chẳng hạn người nuôi nghêu ở Cần Giờ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, mỗi người nuôi theo cách riêng. Mật độ, thời gian nuôi rơi vào thời điểm bất lợi. Người nuôi thả nuôi liên tiếp, không vệ sinh bãi nuôi nên không an toàn. Nguyên nhân nghêu chết sớm trong thời gia qua là do thời tiết nắng nóng gay gắt xuất hiện sớm. Chất lượng môi trường kém, chất rắn lơ lửng nhiều. Vi khuẩn vibrio cũng có thể liên quan đến hiện tượng nghêu chết sớm.
Việc kiểm định nghêu giống, quan trắc tác động nước thải công nghiệp còn nhiều bất cập. Hiện nay, cơ quan chức năng gần như thả nổi chất lượng nghêu giống, việc kiểm định loài thủy sản này còn lỏng lẻo.
Rừng ngập mặn có khả năng điều tiết tiểu vùng khí hậu, làm cho nhiệt độ không khí và nước vùng lân cận ôn hòa hơn, hạn chế tình trạng nhiệt độ tăng cao bất thường. Ngoài ra, rừng ngập mặn còn có tác dụng hấp thu vật chất hữu cơ giàu có trong thủy vực, hạn chế điều kiện phát triển của các mầm bệnh đối với nghêu. Do đó những bên liên quan như người nuôi nghêu và nhà quản lý địa phương cần phải bảo tồn hệ sinh thái rừng ngập mặn để điều tiết môi trường thuận lợi cho đời sống của nghêu tại các vùng nuôi.
Bình luận (0)