Mới đây, TAND huyện Tân Biên, Tây Ninh đã xét xử sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản giữa ông V.V.T (SN 1957) với bà B.T.M.T (SN 1983).
Chồng hờ: Cho mượn tiền mua đồ
Trước đó, trong đơn khởi kiện, ông T. trình bày: Ông và bà M.T (thua ông 26 tuổi) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2011 đến 2015 nhưng không đăng ký kết hôn.
Trong quá trình chung sống, bà M.T có hỏi mượn tiền của ông để mua sắm một số vật dụng trong gia đình. Ông nói với bà M.T là có người quen có cửa hàng nội thất-điện máy bán các mặt hàng gia dụng nên ông sẽ liên hệ họ để mua và thanh toán tiền trước, sau này bà M.T có tiền sẽ trả lại cho ông sau.
Vào ngày 18-11-2011, ông có mua giùm bà M.T một số vật dụng sinh hoạt như sau: Một máy lạnh, một máy giặt, một tủ lạnh, một bộ salon gỗ, một bộ bàn ăn 8 ghế, một kệ trưng bày, một giường sắt, một bàn trang điểm, một nệm Kymdan, một nệm thường, một bếp gas. Tổng cộng số tiền mua các vật dụng sinh hoạt trên là hơn 88 triệu đồng và ông đã thanh toán đủ cho cửa hàng nội thất-điện máy.
Ngoài ra, ông còn cho bà M.T mượn một nhà sắt tiền chế diện tích 4 x 10 m, lợp bằng tôn, cột bằng sắt và dựng sát bên nhà bà T., trị giá khoảng 40 triệu đồng.
Từ đó, ông T. yêu cầu TAND huyện Tân Biên buộc bà M.T hoàn trả cho ông tổng số tiền là hơn 128 triệu đồng.
Tuy nhiên, sau này tại bản trình bày nộp cho tòa vào ngày 27-8-2018, ông T. đã rút lại yêu cầu trên, chỉ yêu cầu bà M.T hoàn trả gần 1,8 triệu đồng theo giá trị tài sản mà hội đồng định giá đã định giá với một số vật dụng như máy giặt, tủ lạnh, bàn trang điểm.
Vợ hờ: Chỉ tặng cho một số đồ cũ
Tại phiên tòa sơ thẩm mới đây, bà M.T trình bày rằng trong quá trình chung sống, ông T. có cho bà một số vật dụng như sau: Máy giặt, tủ lạnh, giường sắt, bàn trang điểm, kệ trưng bày, nệm (không biết hiệu gì), nhà sắt tiền chế diện tích 4 x 10 m. Tuy nhiên, tất cả vật dụng trên đều là đồ cũ của nhà ông T. bỏ đi nên ông mới cho bà.
Theo bà M.T, các vật dụng khác như salon gỗ, bàn ăn 8 ghế, máy lạnh, bếp gas, ông T. không hề cho bà. Nhà bà có máy lạnh, bếp gas nhưng do cha của bà mua cho.
Hiện nay, các vật dụng mà ông T. cho bà như nệm, tủ lạnh đã hư hỏng, không còn giá trị sử dụng. Căn nhà sắt tiền chế cũng từng hư hỏng, vào năm 2017 bà đã bỏ ra khoảng 27 triệu đồng để sửa chữa, cải tạo.
Bà M.T khẳng định do hai người sống chung như vợ chồng nên ông T. đã tự nguyện tặng cho bà một số vật dụng sinh hoạt cũ như bà đã trình bày chứ bà không hề nhờ ông T. mua hay xin bất cứ tài sản nào của ông. Đúng ra bà không chấp nhận yêu cầu của ông T. nhưng do muốn giải quyết vụ án cho xong, do không muốn liên quan, dây dưa gì với ông T. nữa nên bà đồng ý trả lại cho ông T. gần 1,8 triệu đồng.
Theo HĐXX, do tại phiên tòa hai bên thỏa thuận được nên HĐXX ghi nhận, tuyên buộc bà M.T phải trả cho ông T. gần 1,8 triệu đồng.
Pháp luật không công nhận là vợ chồng Theo điểm c khoản 3 Nghị quyết 35 ngày 9-6-2000 của Quốc hội (về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình), kể từ ngày 1-1-2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng... Theo Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng... Đối chiếu với quy định, trường hợp của ông T. và bà M.T sống chung như vợ chồng từ năm 2011 đến 2015 nhưng không đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. |
Bình luận (0)