"Con đường này ánh trăng dịu êm/ nơi anh thả câu ở đó/ thương hai bàn tay chai sần cắt cỏ/ diều lên gió ngự đỉnh trời".
Đọc thơ anh, tôi lại nhớ làng tôi, nhớ "nơi mẹ ru tôi thời thơ bé/ cũng là nơi tôi ngồi hát ru mình". Khi xa làng, ai chẳng nhớ quê xưa, nhà thơ thì nôn nao hơn nhớ cánh đồng ngày thơ bé, nhớ cánh cò bay, sợ lạc mất đường về. Lúc còn thơ, trong đôi mắt trẻ con, Ngô Đức Hành nhìn đâu cũng thấy mênh mông bát ngát, đến khi nhà thơ trở về thăm làng cũ lại bất chợt nhận ra: "khi tôi lớn lên cánh đồng lại hẹp/ cò bay không lạc đường về…". Tiếng "gọi đồng" ấy cứ vang lên, vang xa như một giai điệu buồn đầy hoài niệm tuổi thơ, nơi đó thơm ngào ngạt đồng chiêm/ mây mang hình dấu hỏi. Những câu hỏi chất chứa nỗi niềm đâu dễ gì tả hết, đâu là "đám mây của cha", đâu là "đám mây của mẹ", "những đám mây in hình tuổi thơ" cứ phảng phất bay về.

Minh họa AI: QUỲNH MY
Gọi đồng với giọng quê chan chứa tình yêu, ngôn ngữ dung dị như một tiếng chim hót sau lũy tre làng, trên cánh đồng chiều, bên dòng sông vắng, trong vườn nhà thân thuộc của mình. Có gì đó lặng thầm, thương cảm, đầy thương mến, có lẽ do nhà thơ "mỗi lần về quê tôi cố tìm tôi/ ta đã già đi nhưng quê hương trẻ mãi". Không riêng gì anh đâu, ai cũng sợ giấc mơ xưa còn trễ con đường, tiếng "gọi đồng" là tiếng lòng mà nhà thơ ước ao trả nghĩa làng tôi nợ từ tấm bé:
"Chiếc rễ tôi bám chặt rú Nghèn
Trước mặt tôi dòng sông đơm đầy hoa cơm nguội
Trước mặt tôi đám lục bình dung dăng chẳng nghĩ gì chìm nổi
Phía bên kia con sáo mỏi mắt về…
Rễ tôi cắm đất quê".
(Mạch nguồn)
Vùng quê Nghèn nói riêng và miền Trung nói chung là những vùng đất cằn cỗi khắc nghiệt, gió Lào thiêu đốt mùa hạ, bão giật và lũ ngập mùa mưa như những ngày bão lụt vừa qua. Nơi đây thiên nhiên càng nghiệt ngã, con người sống với nhau càng đậm nghĩa, nặng tình. Đất Nghèn là quê hương của anh với những con đường làng như bao làng quê khác, là nơi lưu giữ biết bao nhiêu kỷ niệm của một thời trai trẻ, càng đi xa càng nhớ làng xưa và luôn thôi thúc nhà thơ tìm về, bởi rễ tôi bám nơi không có tuổi/ ngàn năm/tinh khiết mạch nguồn. Càng nghèo khó nhà thơ càng thương quê đứt ruột: "Lưng cha lấm đất quanh năm/ Mẹ như dẻ lúa mà thành quê thôi/ Mùa đông buốt cả nụ cười/ Mùa hè phơi giọt mồ hôi trên đồng" (Cha mẹ). Vùng đất ấy dù cho khắc nghiệt đến đâu, nhưng với nhà thơ nó mãi mãi vẫn là nơi chốn để tìm về, cho dù đời sống còn nhiều biết bao cơ cực:
"Bát cơm khét nắng sũng mưa
Mồ hôi dấm đủ ngọt chua phía làng…
Có gì buốt nhói trong lòng".
(Tết về nhớ mẹ thương cha)
Có thể nói, trong 8 tập thơ đã xuất bản của Ngô Đức Hành luôn phảng phất hình bóng của quê nhà, mảnh đất nhỏ miền Trung ruột thịt với rất nhiều hoài niệm, nhớ thương. Nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc gợi nhớ mà còn thể hiện một nỗi đau của đứa con đi xa trở về với bao khắc khoải lo âu: "đi giữa cánh đồng quê hương/ cánh cò xa chấp chới/ bóng hình em ngày xưa ùa tới/ tâm hồn anh vướng víu bộn bề" (Ký ức vụn). Vốn là người làm báo, Ngô Đức Hành lang bạt nhiều nơi trên dặm dài xuôi ngược, anh đã gặp biết bao mảnh đời, bao lo toan dằn vặt, cả nỗi buồn xen lẫn những niềm đau trôi dạt kiếp người mỗi lần nhớ mẹ: "Mẹ tôi nằm phía gió lùa/ Áo nâu hai vạt chiêm mùa khét khê/ Đường làng bấc thổi tái tê/ Đồng quê cỏ mật con đê bụi lầm" (Tên mẹ).
Mỗi nhà thơ đều có cách bày tỏ riêng về tình yêu của mình với cái làng quê thân thuộc. Có người gói ghém từng kỷ niệm từ thời ấu thơ cho đến lúc xế chiều, họ lồng vào trái tim nhỏ bé, chín lịm cảm xúc ngọt ngào, chắt lọc qua từng thi ảnh, tạo nên từng tứ thơ dựa trên nguồn mạch từ trong tâm tưởng để gửi gắm vào trong tác phẩm. Nhà thơ Ngô Đức Hành lại khác, anh thường ghi vội, viết nhanh, lưu lại những cảm xúc bất chợt ùa về trong mạch chữ, dường như nhà thơ sợ không kịp lưu giữ cảm xúc ấy trước bao nhiêu bộn bề hỗn tạp giữa cuộc sống đời thường. Những mảnh vỡ từ trong ký ức cứ bùng cháy, khơi dậy, bất chợt lung linh, chín dần thành những tứ thơ lấp lánh.
Khi bạn đọc nghe tiếng "Gọi đồng" của nhà thơ Ngô Đức Hành, ít nhiều sẽ cảm thấu tiếng thơ ấy là những nốt trầm buồn lưu giữ trong ký ức, những cảm xúc chân thành của người nghệ sĩ. Với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thân thuộc hòa lẫn với bút pháp cận đại ngay trên chính dòng thơ truyền thống, Ngô Đức Hành đã tạo nên một không gian nghệ thuật riêng, để mỗi người có thể tìm thấy chính mình trong những câu thơ dung dị, chân thành. "Gọi đồng" không chỉ là lời tâm sự của người con xa quê mà còn là lời thì thầm với bao đời tộc họ nặng nợ văn chương, là lời độc thoại với tình yêu của một người nhà quê nặng nợ với cái làng thân yêu ruột thịt quê nhà. n
(*) "Gọi đồng" - thơ Ngô Đức Hành, NXB Văn học, 2025.
Bình luận (0)