Ngày 10-10, thông tin cho biết Viện KSND Tối cao đã phê chuẩn lệnh bắt và khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Anh Tuấn (SN 1971, trú tại quận Đống Đa, TP Hà Nội; thường trú tại phường 2, quận Phú Nhuận, TP HCM), Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Tập đoàn tài chính Việt, để điều tra về hành vi "Cưỡng đoạt tài sản" theo Điều 135 Bộ Luật hình sự.
Trước đó, ngày 7-10 cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ công an đã thực hiện lệnh bắt khẩn cấp và khám xét khẩn cấp đối với Nguyễn Anh Tuấn, tạm giữ hình sự đối với đối tượng Tuấn và thu giữ một số tài liệu liên quan.
Theo thông tin ban đầu từ cơ quan điều tra, Nguyễn Anh Tuấn khai nhận vào khoảng tháng 9-2014, thông qua mối quan hệ ngoài xã hội, Tuấn nghe được thông tin từ một số nhà báo nói chuyện với nhau tại quán cà phê số 6 (phố Tú Xương, TP HCM) về việc đang chuẩn đăng tải bài viết có nội dung liên quan đến dấu hiệu tiêu cực tại Tổng Công ty Năng lượng dầu khí Việt Nam (PVEIC).
Đáng chú ý là trong bài viết đó còn có nội dung nói xấu, hạ uy tín bà Vũ Thúy Huệ, nguyên Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty Công nghệ Năng lượng Dầu khí Việt Nam (PV EIC, trụ sở tại TP HCM) thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam (PVN) cùng chồng của bà Huệ là một vị Phó tổng giám đốc PVN.
Nhìn thấy đây là cơ hội tống tiền bà Huệ, Tuấn đã tìm hiểu nội dung chi tiết bài báo sẽ đăng tải như thế nào và đã nhiều lần liên lạc qua điện thoại, nhắn tin và trực tiếp gặp bà Huệ đưa tài liệu về bài báo sẽ đăng tải có nội dung hạ uy tín vợ chồng bà Huệ.
Đồng thời, Tuấn yêu cầu bà Huệ phải đưa 110.000 USD để Tuấn đưa cho một số nhà báo tham gia viết bài nếu không sẽ cho đăng tải trên một số tờ báo.
Do bị thúc ép nhiều lần và lo sợ dư luận hiểu lầm qua các bài báo, ảnh hưởng đến uy tín của bà và chồng nên đầu tháng 10, bà Huệ đã chuyển vào tài khoản của đối tượng Tuấn 1 tỉ đồng qua ngân hàng Eximbank, đồng thời tố cáo sự việc này đến cơ quan Công an.
Vụ việc đang tiếp tục được cơ quan công an điều tra, làm rõ.
Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Bình luận (0)