Hàng châu Âu sản xuất tại... châu Á
Dự án có giá trị hơn 398,6 tỉ đồng, chia làm 27 gói thầu. Quan trọng nhất là gói thầu “hệ thống tự động quản lý không lưu”- trị giá 9,65 triệu USD, do nhà thầu Thales (Úc) thực hiện.
Theo hồ sơ mời thầu và hợp đồng, toàn bộ thiết bị của hệ thống quản lý tự động không lưu nói trên phải được sản xuất, nguồn gốc xuất xứ từ các nước Bắc Mỹ, châu Âu và Nhật Bản. Tuy nhiên, khi thực hiện hợp đồng thì VATM lại chấp nhận cho Thales lắp đặt nhiều thiết bị có nguồn gốc châu Á, chủ yếu từ Trung Quốc.
Với lý do phần mềm của Thales không chạy được trên máy tính IBM của Mỹ nên ông Nguyễn Đình Vọng đã có tờ trình lên Tổng Giám đốc VATM Nguyễn Xuân Hiển, đề xuất thay 79 máy tính IBM 615 bằng 84 máy tính AMD-PPT-04 của Thales do hãng NIJKER (Pháp) sản xuất. Thế nhưng, theo tài liệu điều tra của Cảnh sát Pháp thông qua Văn phòng Interpol thì máy tính này được mua linh kiện tại Trung Quốc, Đài Loan, lắp ráp tại Pháp chứ không được sản xuất tại quốc gia này. Thậm chí thiết bị bộ nguồn máy tính, màn hình LCD hay nhiều modem không ghi nơi sản xuất. Chênh lệch giữa giá thiết bị trong hợp đồng và thiết bị sản xuất ở châu Á là rất lớn. Chỉ tính riêng 90 chuột máy tính số tiền chênh lệch đã lên đến hơn... 8.000 USD!
Mặc dù vậy, VATM vẫn nghiệm thu thanh toán mà không thay đổi giá như đã ký ban đầu. Chỉ tính ở giai đoạn 1 của dự án, hai bên đã ký biên bản nghiệm thu công trình và VATM đã trả tiền cho nhà thầu Thales trên 6,7 triệu USD.
Chiều 23-8, ông Thăng vẫn khăng khăng: Theo hồ sơ mời thầu máy tính phải hiểu là máy tính tích hợp nguyên chiếc, không có bất cứ một yêu cầu nào khác liên quan đến cấu kiện bên trong máy tính. Theo ông Thăng, việc thay đổi này còn làm lợi cho Nhà nước tổng cộng 360.000 USD từ việc tiết kiệm, “ép” nhà thầu đổi lại bằng việc đào tạo kiểm soát viên không lưu...(?!).
Thậm chí luật sư Trần Vũ Hải, đại diện pháp luật của VATM còn “răn đe”: Gia nhập WTO, người ta chỉ nói đến chất lượng, cấm không được nói đến nguồn gốc xuất xứ.
VATM vượt thẩm quyền ?
Trong quá trình thực hiện hợp đồng này ông Nguyễn Xuân Hiển còn bị coi là “có dấu hiệu cố ý làm trái” khi tự ý sửa chữa hợp đồng rồi tự ký phê duyệt chấp nhận thanh toán cho Thales khoảng 70% giá trị hợp đồng...
Để giải thích cho việc này, Phó Tổng giám đốc Nguyễn Văn Thăng đưa ra quy định tại Nghị định 07/2003/NĐ-CP về quản lý các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. Từ đó, ông Thăng khẳng định VATM là cấp quyết định đầu tư đối với các dự án sử dụng quỹ đầu tư phát triển của mình. Tuy nhiên, cơ quan chức năng đã khẳng định, quỹ này không phải quỹ đầu tư phát triển doanh nghiệp tự huy động. Trung tâm hiểu đó là tiền của mình để vận dụng nghị định nói trên rồi quyết định thế nào, không cần xin phép ai là vượt thẩm quyền.
Bên cạnh đó, Bộ KH-ĐT đã có văn bản giải thích thẩm quyền quyết định các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp hoạt động công ích (trong đó VATM thuộc đối tượng này): Doanh nghiệp công ích không được tự quyết định đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp mà cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp mới có quyền quyết định đầu tư, quyết định cho huy động vốn hoặc ủy quyền cho doanh nghiệp quyết định đầu tư đối với dự án thuộc nhóm B,C. Ở trường hợp này, dự án AACC/HCM, trong đó có gói thầu số 15 nói trên thuộc dự án nhóm B. Khi các phóng viên đặt câu hỏi phía VATM hiểu như thế nào về giải thích của cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong lĩnh vực đầu tư, đấu thầu thì cả các vị lãnh đạo lẫn luật sư đại diện đều không trả lời.
Bình luận (0)