Hồ thủy điện Thác Mơ có diện tích 109km2 (ứng với mực nước dâng bình thường 218m), dung tích 1,36 tỉ m3, giáp với 2 huyện Phước Long và Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Theo Quyết định 218 ngày 10-5-2003 của Thủ tướng Chính phủ, trong số này có 10.300 ha đất được thu hồi của 2 huyện Bù Đăng và Phước Long.
Tuy nhiên, nếu kết quả kiểm tra vùng ngập lòng hồ các năm từ 1995 đến đầu 2003 của Nhà máy Thủy điện Thác Mơ chưa phát hiện trường hợp lấn chiếm nào trên vùng bán ngập lòng hồ, thì từ mùa khô năm 2003, hiện tượng xâm chiếm vùng bán ngập lòng hồ này để nuôi trồng thủy sản bắt đầu xuất hiện.
Tháng 10-2003, tại thôn Phước Lộc và thôn Bầu Nghé xã Phước Ninh, huyện Phước Long, đoàn kiểm tra của nhà máy đã phát hiện Công ty TNHH Thủy sản Phước Sơn do ông Nguyễn Văn Nhớ làm chủ (trụ sở tại thôn Phước Sơn, xã Phước Tín của huyện này) san lấp, bao đê, lấn chiếm 8 ha ở 2 khu vực vùng bán ngập.
Trong đợt kiểm tra từ ngày 7 đến 26-10-2004 (thời điểm mực nước hồ Thác Mơ dâng lên cao trình 215m-216m), nhà máy phát hiện tình trạng san lấp, bao đê, đóng cọc giăng lưới, lấn chiếm vùng bán ngập lòng hồ diễn ra ồ ạt từ mùa khô 2004 (tháng 5, 6). Tổng diện tích vùng bán ngập lòng hồ Thác Mơ bị lấn chiếm ở 2 huyện Phước Long và Bù Đăng được nhà máy thống kê lên đến 171,4 ha, tập trung chủ yếu ở các sông, suối, bưng, bàu thuộc các xã vùng thượng nguồn lòng hồ Thác Mơ như: Bom Bo, Minh Hưng, Đức Liễu (huyện Bù Đăng); xã Phước Tín (huyện Phước Long). Trong đó, diện tích lấn chiếm có đắp đập là 76,4 ha (Bù Đăng 64,4 ha, Phước Long 12 ha).
Cụ thể, tại huyện Bù Đăng có 25 hộ vi phạm gồm 26 hồ với diện tích lấn chiếm 151,4 ha, trong đó có 19 hồ đã đắp đập (diện tích khoảng 64,4ha). Tại huyện Phước Long có 6 hộ vi phạm (6 hồ) với diện tích 20ha. Trong đó 2 hồ đã hoàn thành đắp kín xung quanh nuôi cá diện tích khoảng 4 ha. Đáng chú ý, hộ ông Nguyễn Văn Thơ thuộc ấp 9 xã Minh Hưng, huyện Bù Đăng còn được UBND xã và Ban quản lý rừng phòng hộ Bom Bo xác nhận và cho phép đắp đập làm hồ với diện tích 8ha.
Đua nhau phá rừng phòng hộ
Trong khi đó, theo Ban Pháp chế HĐND tỉnh Bình Phước, mặc dù trong năm 2004 tỉnh đã chỉ đạo cơ quan điều tra khởi tố hình sự 57 vụ phá rừng làm rẫy trên địa bàn tỉnh, tăng 13 vụ so với 2003, nhưng tình trạng này vẫn tiếp tục diễn ra rất nghiêm trọng. Hậu quả: diện tích rừng ở một số lâm trường của tỉnh còn lại không đáng kể, đặc biệt là diện tích rừng phòng hộ của Nhà máy Thủy điện Thác Mơ.
![]() |
Phần lớn rừng phòng hộ Thủy điện Thác Mơ đã bị tàn phá. |
Theo báo cáo của Ban quản lý rừng phòng hộ Bù Gia Phúc, từ đầu năm 2004 đến nay, có 363 ha rừng đã “mất tích” do dân phá để làm rẫy, nâng tổng số diện tích đất lâm nghiệp bị dân xâm canh lấn chiếm trái phép lên đến 17.640 ha trên tổng số 20.556 ha. Điều đáng chú ý là 100% diện tích rừng phòng hộ lòng hồ Thủy điện Thác Mơ thuộc địa phận do Ban quản lý rừng phòng hộ Bù Gia Phúc quản lý đã bị dân xâm canh lấn chiếm “sạch trơn”.
Theo khẳng định của ông Nguyễn Thắng, Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh Bình Phước, toàn bộ diện tích rừng phòng hộ lòng hồ thủy điện Thác Mơ rất khó có khả năng thu hồi hay thực hiện các dự án giao đất cho các tổ chức, cá nhân theo dự án đã được phê duyệt. Ngay như 1.223,7 ha rừng tự nhiên “may mắn” còn sót lại đến thời điểm này ở ngoài khu vực lòng hồ Thác Mơ thì chủ yếu cũng là rừng dạng… da beo và giá trị thấp.
Tương tự, tại Ban quản lý rừng phòng hộ Thống Nhất (thuộc huyện Bù Đăng), cơ quan chức năng phát hiện 12.556 ha đất lâm nghiệp mà Nhà nước giao cho Lâm trường Thống Nhất quản lý, đến nay cũng chỉ tồn tại vỏn vẹn 2.400ha.
Buông lỏng quản lý?
Theo ông Nguyễn Thắng, Trưởng ban Pháp chế HĐND tỉnh Bình Phước, nguyên nhân dẫn đến tình trạng rừng phòng hộ nhà máy thủy điện trên địa bàn tỉnh liên tục bị tàn phá mà không ngăn chặn được là do lâm trường và các ban quản lý đã buông lỏng quản lý. “Giữa chính quyền địa phương, cơ quan kiểm lâm và đơn vị chủ rừng đã thiếu đồng bộ trong việc phát hiện, xử lý vi phạm. Đã vậy, việc triển khai, thực hiện các quy định của Nhà nước về lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và xử lý vi phạm ở nhiều nơi cũng chưa có sự thống nhất. Thậm chí, một số vụ vi phạm khi bị khởi tố hình sự lại chưa được các cơ quan tố tụng xét xử kịp thời, nên đã không đủ sức răn đe vi phạm” – ông Thắng khẳng định.
Trong khi đó, theo ông Nguyễn Trọng Oánh, Giám đốc Nhà máy Thủy điện Thác Mơ, ngay sau khi kiểm tra phát hiện tình trạng vi phạm lấn chiếm vùng bán ngập lòng hồ Thủy điện Thác Mơ, ngày 15 và 29-10-2004, nhà máy đã có công văn gửi UBND tỉnh Bình Phước, UBND huyện Bù Đăng, UBND huyện Phước Long và chính quyền, cơ quan chức năng các địa phương xảy ra vi phạm để tìm biện pháp ngăn chặn, xử lý.
Và sau khi nhận được công văn của Nhà máy Thủy điện Thác Mơ, UBND, Sở Nông nghiệp – Phát triển nông thôn tỉnh Bình Phước đã chỉ đạo UBND các huyện Phước Long, Bù Đăng phối hợp với nhà máy “kiểm tra, xử lý kiên quyết” tình trạng này. “Hiện nay, nhà máy đã và đang tiếp tục phối hợp với chính quyền địa phương hai huyện Phước Long và Bù Đăng kiểm tra lập biên bản xử lý 26 hộ vi phạm (27 hồ) và đã yêu cầu số hộ này phải tháo dỡ phần đê bao trả lại nguyên trạng lòng hồ trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập biên bản. Nếu dân không tự tháo dỡ, nhà máy sẽ phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức cưỡng chế”, ông Oánh khẳng định.
Cũng như ở lòng hồ Nhà máy Thủy điện Trị An, chưa biết rồi đây những vi phạm sẽ được xử lý và cưỡng chế tháo dỡ như thế nào để đảm bảo trả lại nguyên trạng cho lòng hồ cũng như giải quyết ổn thỏa được các vấn đề xã hội phát sinh. Thế nhưng, vấn đề có tính cốt lõi hơn được đặt ra là vì sao nhà máy thủy điện thường xuyên tổ chức kiểm tra nhưng lòng hồ vẫn bị xâm chiếm, bao đắp vô tội vạ? Cá nhân nào sẽ phải chịu trách nhiệm cho sự buông lỏng quản lý, bảo vệ khiến phần lớn rừng phòng hộ cho nhà máy đã bị xóa sổ…?
Theo những người có trách nhiệm ở địa phương, đó là những câu hỏi bức xúc.
Bình luận (0)