Tổng thanh tra đã làm rõ trách nhiệm và đề nghị cách chức thứ trưởng nhưng đề nghị này không được giải quyết, đã gián tiếp tiếp tay cho một loạt những sai phạm sau này.
Năm 1979, ông Nguyễn Thiện Luân được điều về làm phó tổng giám đốc Xí nghiệp Liên hiệp Bột ngọt kiêm giám đốc Nhà máy Thiên Hương. Liên tục sau đó, sản lượng của nhà máy tụt giảm. Nhà máy này liên doanh với Công ty Cholimex, sử dụng nguyên liệu của công ty này để sản xuất theo phương thức vay trước trả sau và chỉ đạo cho nhập khống bột ngọt để hoàn thành kế hoạch trên sổ sách. Cách làm này đã đẩy Thiên Hương tới chỗ nợ nần chồng chất. Tháng 3-1983, đoàn thanh tra của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) vào cuộc thì ông Luân đối phó bằng cách báo cáo một số cán bộ nhân viên ăn cắp 51,8 tấn bột ngọt. 6 cán bộ, công nhân lành nghề đã bị bắt giam từ tháng 5-1983 đến tháng 12-1985. Ngày 9-8-1991, Tổng Thanh tra Nhà nước đã có kết luận về vụ vu khống nghiêm trọng này và kiến nghị xử lý nhiều vấn đề liên quan, trong đó có việc cách chức ông Nguyễn Thiện Luân, lúc đó đã là thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm. Tuy nhiên, sự việc đã rơi vào im lặng. Sau khi bộ này sáp nhập với Bộ Thủy lợi, ông Luân tiếp tục giữ chức thứ trưởng cho tới khi xảy ra vụ án Lã Thị Kim Oanh năm 2001.
Với cương vị thứ trưởng Bộ NN&PTNT, ông Nguyễn Thiện Luân là một trong những “tổng công trình sư” của dự án mía đường, được triển khai từ tháng 5-1995, để đến năm 2000 đạt sản lượng 1 triệu tấn đường. Để đạt mục tiêu này, ngoài 14 nhà máy sẵn có, sẽ xây dựng thêm 17 nhà máy mới, mở rộng 7 nhà máy.
Đến năm 2000, trong khi thực hiện chức năng kiểm sát, Viện KSND Tối cao đã kháng nghị vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chương trình mía đường. Cụ thể, qua kiểm tra 14 dự án đầu tư xây dựng nhà máy đường, các nhà máy này đã tăng mức đầu tư lên tới 48,04% so với dự toán ban đầu. Một số dự án khi xác định địa điểm xây dựng nhà máy đã không nghiên cứu kỹ như Công ty Đường Linh Cảm (Hà Tĩnh), Công ty Đường Quảng Bình... nhà máy bố trí xa vùng nguyên liệu, chi phí vận chuyển lớn dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Công suất 2 vụ ép đầu tiên chỉ đạt 4%-15% công suất thiết kế, đường sản xuất lỗ không bán được. 20 nhà máy xây dựng mới đến giữa năm 1999 có số dư nợ lên tới 2.788 tỉ đồng. Nhiều nhà máy không đấu thầu xây dựng mà được chỉ định thầu. Nguồn vốn đầu tư phần lớn đi vay, tỉ lệ vốn tự có tham gia đầu tư rất thấp hoặc không có, tác động bất lợi cho việc hoàn vốn của các nhà máy.
Về đầu tư vùng nguyên liệu, các chủ đầu tư không thực hiện đúng việc đầu tư theo quy hoạch đã được duyệt, dẫn đến hầu hết các nhà máy đều thiếu nguyên liệu. Phần lớn diện tích trồng mía hiện nay là giống mía cũ năng suất kém dẫn đến tình trạng nhà máy xây dựng xong chỉ hoạt động được 30%-50% công suất, thậm chí một số nhà máy chỉ đủ mía chạy 7%-10% công suất, làm cho các dự án nhà máy đường đạt hiệu quả thấp, bị lỗ vốn và không đủ khả năng trả nợ. Về việc thực hiện hợp đồng mua sắm thiết bị lắp đặt nhà máy, 15 nhà máy đã nhập thiết bị toàn bộ của Trung Quốc, công nghệ lạc hậu không đúng theo quy định.
Bình luận (0)