xem thêm
An Giang
Bình Dương
Bình Phước
Bình Thuận
Bình Định
Bạc Liêu
icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Vụ án ly hôn của vợ chồng "vua" cà phê Trung Nguyên: 80 tỉ hay 8 tỉ đồng án phí?

Luật sư Nguyễn Văn Đức (Đoàn Luật sư TP HCM)

(NLĐO)- Dựa theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của tòa án thì TAND TP HCM đã tính nhầm án phí với vụ ly hôn vợ chồng "vua" cà phê Trung Nguyên.

[Video] Tòa tuyên bố vụ án ly hôn giữa ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo

Vụ án ly hôn của vợ chồng ông chủ Tập đoàn cà phê Trung Nguyên đã được TAND TP HCM xét xử và tuyên án vào chiều 27-3. Ngoài khối tài sản rất lớn mà mỗi bên được nhận, thì phần phán quyết về án phí cũng thuộc hàng "khủng" từ trước đến nay.

Theo phán quyết của TAND TP HCM, ông Vũ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 48,7 tỉ đồng; bà Thảo chịu án phí dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng, án phí có giá ngạch là 34,2 tỉ đồng.

Vấn đề đặt ra là mức án phí mà tòa án tuyên có chính xác hay không và dựa trên quy định pháp luật nào?

Căn cứ để tính án phí

Trước hết căn cứ để tính án phí đối với các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình… phải theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Theo điều 24 Nghị quyết 326 nêu trên, trong dân sự (bao gồm cả hôn nhân và gia đình), có án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự không có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm đối với vụ án dân sự có giá ngạch.

Theo khoản 5 điều 27 quy định về vụ án hôn nhân và gia đình thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm được xác định như sau:

Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Trường hợp thuận tình ly hôn thì mỗi bên đương sự phải chịu 50% mức án phí;

Trường hợp các đương sự trong vụ án hôn nhân và gia đình có tranh chấp về việc chia tài sản chung của vợ chồng thì ngoài việc chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch, còn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia.

Khoản 6 điều 27 quy định có liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng thì nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm, bên có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch.

Theo Danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326, đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch, mức án phí sơ thẩm phải chịu là 300.000 đồng.

Đối với tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình có giá ngạch được tính như sau:

Cột 1Cột 2Cột 3
a
Từ 6.000.000 đồng trở xuống
300.000 đồng
bTừ trên 6.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng
5% giá trị tài sản có tranh chấp
cTừ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng
20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng
dTừ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng
36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 800.000.000 đồng
đTừ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng
72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt 2.000.000.000 đồng
eTừ trên 4.000.000.000 đồng
112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản tranh chấp vượt 4.000.000.000 đồng.

Án phí hai bên phải nộp là chỉ hơn 8 tỉ đồng

Trở lại trường hợp ông Vũ, bà Thảo, mức án phí không có giá ngạch bà Thảo phải chịu là 300.000 đồng do bà Thảo là người khởi kiện; mức án phí không có giá ngạch ông Vũ phải chịu là 300.000 đồng do phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho 4 đứa con chung của hai vợ chồng.

Đối với phần tài sản tranh chấp của ông Vũ, bà Thảo thuộc trường hợp có giá ngạch nên phải chịu án phí dân sự có giá ngạch. Tổng cộng khối tài sản chung của 2 vợ chồng đang sở hữu trừ bất động sản là 7.502 tỉ đồng, ông Vũ sở hữu 60% - tương đương 4.501 tỉ đồng, bà Thảo sở hữu 40% - tương đương 3.001 tỉ đồng. Ông Vũ được giao các bất động sản trị giá hơn 350 tỉ đồng, bà Thảo sở hữu 7 bất động sản trị giá 375 tỉ đồng; ông Vũ có trách nhiệm thanh toán cho bà Thảo số tiền chênh lệch là 1.233 tỉ đồng.

Phần tài sản ông Vũ được nhận, tổng cộng khoản 4.864 tỉ đồng, phần bà Thảo được nhận là 3.364 tỉ đồng. Phần án phí có giá ngạch theo phán quyết của tòa, ông Vũ phải chịu là 48,7 tỉ đồng, bà Thảo phải chịu là 34,2 tỉ đồng,

Căn cứ vào danh mục án phí, lệ phí theo Nghị quyết 326, phần phán quyết của tòa án đối với án phí có giá ngạch ông Vũ, bà Thảo phải chịu là có sự nhầm lẫn. Bởi lẽ, với phần tài sản ông Vũ được nhận 4.864 tỉ đồng, án phí được tính như sau: 112 triệu đồng (đối với phần 4 tỉ đồng) + 0,1% đối với phần vượt quá 4 tỉ đồng, tức là 0,1% của 4.860 tỉ đồng, tương đương 4,86 tỉ đồng. Án phí ông Vũ phải chịu theo Nghị quyết chỉ là 4,972 tỉ đồng.

Tương tự, với phần tài sản bà Thảo được nhận 3.364 tỉ đồng, án phí được tính như sau: 112 triệu đồng (đối với phần 4 tỉ đồng) + 0,1% đối với phần vượt quá 4 tỉ đồng, tức là 0,1% của 3.360 tỉ, tương đương 3,36 tỉ đồng. Án phí bà Thảo phải chịu theo Nghị quyết chỉ là 3,472 tỉ đồng.

Thủ tục sửa chữa bản án khi có nhầm lẫn về án phí

Như vậy, phần án phí mà TAND TP HCM tuyên đã có sự nhầm lẫn về số liệu. Trong trường hợp, tòa phát hiện ra sự nhầm lẫn này thì phải thông báo sửa chữa bổ sung bản án. Theo điều 268 Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015 thì việc sửa chữa như sau:

"1. Sau khi tuyên án xong thì không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai.

2. Trường hợp cần sửa chữa, bổ sung bản án theo quy định tại khoản 1 điều này thì thẩm phán phối hợp với các hội thẩm nhân dân là thành viên HĐXX đã tuyên bản án đó phải ra quyết định sửa chữa, bổ sung bản án và gửi ngay cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, VKS cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự nếu bản án đã được gửi cho cơ quan thi hành án dân sự.

Trường hợp thẩm phán đã xét xử vụ án đó không còn đảm nhiệm chức vụ thẩm phán tại tòa án đã ra bản án đó thì chánh án tòa án thực hiện việc sửa chữa, bổ sung bản án".

Như vậy, HĐXX phải ra quyết định sửa chữa bản án và gửi ngay cho các đương sự và VKSND cùng cấp biết. Nếu tòa không ra quyết định sửa chữa thì các đương sự có quyền kháng cáo, VKSND cùng cấp hoặc VKSND cấp trên trực tiếp kháng nghị.

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo