Bời lời cao đến 10 m, có nhiều dạng, vỏ thân nâu, không mùi, không vị, không có chất nhớt, cành trưởng thành hình trụ, nhẵn; cành non có cạnh, nhiều lông. Lá mọc so le, thường mọc thành cụm ở đầu cành, hơi dai, màu xanh lục đậm, mặt trên bóng, mặt dưới có lông, kích thước rất thay đổi, dài 7-20 cm, rộng 4-10 cm, hình bầu dục hay thuôn dài. Mùa quả vào tháng 7-8.
Theo đông y, bời lời có vị đắng, mát, thanh nhiệt, tiêu sưng, trị viêm. Các bộ phận của cây đều có tác dụng làm thuốc. Ngoài ra, vỏ giã nát dùng đắp lên những nơi sưng, bỏng, vết thương, có nơi dùng cả lá giã đắp. Vỏ còn dùng sắc uống chữa tiêu chảy, lỵ. Nước ngâm vỏ bời lời có thể dùng bôi đầu cho tóc bóng. Dầu bời lời dùng làm sáp, chế xà phòng. Gỗ bời lời mịn, khá rắn, bảo quản tốt có thể dùng làm các đồ dùng trong nhà.
Liều dùng: Ngày dùng 10-20 g vỏ dưới dạng thuốc sắc, dùng ngoài không kể liều lượng.
Dưới đây là những phương thuốc trị bệnh từ cây bời lời:
- Bong gân, chấn thương tụ máu, đau khớp: Vỏ tươi cạo bỏ lớp khô, giã nát, đắp bó. Hay dùng lá già xắt nhỏ cho ít muối, nước giã đắp (có muối thì lá không dai).
- Ung nhọt, áp-xe, viêm vú: Lá bời lời, lá phù dung, 2 lượng bằng nhau giã với ít muối đắp. Thuốc này tác dụng rất tốt, đạt kết quả cao, đắp cả ngày không bị bỏng da.
- Tiêu chảy, lỵ: Vỏ thân hoặc lá bời lời 30 g, gừng tươi 10 g, vỏ quýt 10 g, nấu sắc uống.
- Thiên đầu thống: Lá hoặc vỏ cây bời lời 30 g, bạch chỉ 10 g, cam thảo 5 g, nấu sắc uống. Hay dùng lá khô 16 g sắc uống trong ngày.
- Đầy hơi, ợ chua, ợ hơi, trướng bụng: Dùng lá bời lời tươi, đốt, tán thành bột uống, cách này theo kinh nghiệm dân gian rất hiệu nghiệm.
- Chải tóc: Vỏ cây tươi băm xắt nhỏ ngâm nước. Dùng nước này chải tóc, tóc im, mượt như chải gôm. Dùng nước lá bời lời chải tóc không lo dị ứng da đầu, gội sạch dễ dàng, không dính dầu lại.
Bình luận (0)