Năm nay, trước sự bộc phát nhanh chóng của bệnh tả và tiêu chảy, có dấu hiệu cho thấy giới y tế tập trung vào vi khuẩn E. coli. Theo TS Trần Đáng, Cục trưởng Cục Vệ sinh An toàn Thực phẩm - Bộ Y tế, kết quả xét nghiệm những “vật phẩm” lấy từ các quán ăn đường phố đều bị nhiễm khuẩn E. coli với tỉ lệ nhiễm trên 65%. Trong một phát biểu khác, ông Đáng cho biết kết quả xét nghiệm một số mẫu thực phẩm chín ở các nơi như TPHCM, Huế, Cà Mau... cho thấy “đụng đâu cũng có vi khuẩn gây tiêu chảy cấp”. Từ các dữ liệu trên, Cục Vệ sinh An toàn Thực phẩm đi đến nhận định rằng nếu như không kiểm soát được những “vật phẩm” nhiễm khuẩn E. coli lưu thông thì nguy cơ mang mầm bệnh, chủ yếu là ảnh hưởng về đường tiêu hóa sẽ lây lan cao.
Thật khó mà biết được giá trị khoa học của các dữ liệu trên đây, bởi chúng ta không biết những chi tiết về phương pháp nghiên cứu. Các kết quả này chưa được công bố trên một tập san khoa học nào (trong cũng như ngoài nước). Câu hỏi đặt ra là có cần làm những nghiên cứu đó hay không trong khi chúng ta biết rằng đã có nhiều nghiên cứu như thế trong quá khứ. Nhưng dù giá trị khoa học ra sao, tôi e rằng nhận định trên của cơ quan chức năng thiếu tính thuyết phục, bởi vì chúng ta không biết E. coli nào được tìm thấy trong thực phẩm cũng như mối liên hệ của nó với bệnh tả ra sao. Tôi cũng sợ rằng nếu tập trung vào vi khuẩn E. coli thì một lần nữa các giới chức y tế sẽ phạm phải sai lầm trong định hướng phòng chống bệnh.
E. coli có rất nhiều trong thực phẩm ở VN
E. coli là tên gọi của một nhóm vi khuẩn (chứ không phải một vi khuẩn duy nhất), rất phổ biến và có mặt trong môi trường hữu cơ. Ngay cả ở các nước, châu lục có nền kinh tế tiên tiến hơn ta như Mỹ và châu Âu, người ta vẫn tìm thấy E. coli trong một số thực phẩm. Do đó, sự hiện diện của E. coli trong đồng tiền hay trong rau cải không có nghĩa là bệnh tiêu chảy sẽ lan rộng như cách nói báo động trên đây.
Phần lớn các vi khuẩn E. coli không ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe. Nhưng có một số E. coli có thể gây bệnh và các vi khuẩn này có thể tựu trung vào 6 nhóm sau đây: VTEC (Verocytotoxin-producing E. coli), AEEC (Attaching and effacing E. coli), EPEC (Enteropathogenic E. coli), ETEC (Enterotoxigenic E. coli), EIEC (Enteroinvasive E. coli) và EAEC (Enteroaggregative E. coli). Tùy vào địa phương và độ tuổi, các vi khuẩn này có những ảnh hưởng khác nhau đến bệnh tiêu chảy.
Nói đến E. coli và mối liên hệ của nó đến bệnh tiêu chảy mà không điểm qua y văn là một thiếu sót.
Bảng 1
Chú thích, diễn giải: Số ngoài ngoặc là số ca có nhiễm khuẩn; số trong ngoặc là phần trăm tính trên 163 đối tượng; tỉ số nguy cơ là một đo lường về mối liên hệ giữa một vi khuẩn và bệnh. Khi tỉ số này cao hơn 1, điều đó có nghĩa là vi khuẩn gia tăng nguy cơ mắc bệnh; khi tỉ số thấp hơn 1 thì vi khuẩn có thể giảm nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy. Tỉ số trong ngoặc là khoảng tin cậy 95%; khi khoảng tin cậy này bao gồm cả 1 (như tất cả các vi khuẩn trong bảng) thì điều đó có nghĩa là ảnh hưởng của vi khuẩn không có ý nghĩa thống kê. |
Năm 2004, các nhà nghiên cứu Việt - Úc đã tiến hành nghiên cứu để biết tần số hiện diện của E. coli trong thực phẩm. Kết quả này đã được công bố trên một tập san sinh học và môi trường vào năm 2007. Trong đó, các nhà nghiên cứu ra các chợ ở TPHCM lấy 50 mẫu thịt bò, 30 mẫu thịt gà, 50 mẫu thịt heo và 50 mẫu hải sản (tôm, sò, cua, ghẹ...). Sau khi phân tích, họ phát hiện trên 90% các mẫu thịt và hải sản hàm chứa E. coli, nhưng không phân tích chi tiết để biết E. coli nào. Ngoài ra, trong nghiên cứu này, có đến 61% các mẫu thịt và 18% các mẫu hải sản bị nhiễm khuẩn Salmonella spp (một loại vi khuẩn có khả năng gây cảm cúm và ngộ độc thực phẩm). Một nghiên cứu khác trên 258 con heo ở Cần Thơ vào năm 2002 cho thấy khoảng 9% phân heo bị nhiễm E. coli (phần lớn là AEEC và Shigella toxin producing E. coli).
Như vậy, việc tìm thấy E. coli trong thực phẩm như rau cải hay thịt ở VN không có gì đáng ngạc nhiên. Vấn đề đặt ra là E. coli liên hệ như thế nào đến bệnh tiêu chảy hay bệnh tả, và các lý giải tiếp theo đây sẽ cung cấp cho bạn đọc một cái nhìn khoa học hơn.
E. coli và tiêu chảy ở Việt Nam
Trong một nghiên cứu ở làng Yên Sở (Hà Nội, xem bảng 2), các nhà nghiên cứu theo dõi 636 người (tuổi từ 15 đến 70) thuộc 400 gia đình từ tháng 11-2002 đến tháng 5-2004. Trong thời gian khoảng 2,5 năm đó, họ ghi nhận có 196 người (khoảng 31%) bị tiêu chảy. Như vậy, tiêu chảy là bệnh khá phổ biến ngay từ những năm trước khi dịch bệnh xảy ra. Để tìm hiểu vi khuẩn nào liên quan đến bệnh tả, các nhà nghiên cứu chọn 163 người mắc bệnh và 163 người không mắc bệnh. Qua phân tích phân, họ ghi nhận tình trạng nhiễm khuẩn giữa nhóm tiêu chảy và không tiêu chảy như trong bảng 1 sau đây. Qua nghiên cứu này, chúng ta thấy có khoảng 14% bệnh nhân tiêu chảy bị nhiễm vi khuẩn E. coli, nhưng trong nhóm người không mắc bệnh tiêu chảy, vẫn có khoảng 10% nhiễm vi khuẩn E. coli. Ngoài ra, phần lớn vi khuẩn DEC là EAEC và AEEC/EPEC, nhưng vì số lượng còn thấp nên chưa kết luận gì về ảnh hưởng của hai loại vi khuẩn này đến tiêu chảy.
Trong nghiên cứu trên, các nhà khoa học không phát hiện mối liên hệ nào giữa bệnh tiêu chảy và các vi khuẩn E. coli. Nhưng một nghiên cứu khác ở trẻ em tại Hà Nội cho thấy vi khuẩn E. coli (DEC) có liên quan đến bệnh tả. Trong nghiên cứu này, các nhà nghiên cứu VN - Thụy Điển sử dụng mô hình nghiên cứu bệnh chứng (case-control design) với 249 trẻ em (dưới 5 tuổi) mắc bệnh tiêu chảy và 124 em không mắc bệnh tiêu chảy. Qua phân tích phân, họ phát hiện rằng trong nhóm tiêu chảy, số trẻ em bị nhiễm DEC là 26%, cao hơn nhóm không tiêu chảy (tỉ lệ nhiễm là 10,5%). Nói cách khác, trẻ em nhiễm DEC có nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy cao gần 3 lần so với trẻ em không nhiễm DEC.
Phân tích chi tiết (bảng 2) cho thấy 3 nhóm vi khuẩn DEC chính là: AEEC (chiếm 39% trong tổng số DEC), EAEC (chiếm khoảng 1/3 trong tổng số DEC) và ETEC (chiếm 15% trong tổng số DEC).
Đừng lặp lại "bài học mắm tôm"
Các nghiên cứu khoa học trên cho chúng ta một “bức tranh” toàn cảnh về hình hình E. coli ở VN. Theo tôi, một số nhận xét ban đầu có thể thấy rút ra từ các dữ liệu này như sau:
Thứ nhất, nhiều thịt và hải sản bày bán trong các chợ bị nhiễm E. coli, nhưng việc nhiễm này không phải xuất phát từ khâu chăn nuôi, bởi vì không đến 10% phân heo bị nhiễm khuẩn và các khuẩn này cũng không nằm trong danh sách nguyên nhân chính của bệnh tiêu chảy. Điều này cho chúng ta biết việc các thực phẩm bày bán trong chợ bị nhiễm có lẽ qua nguồn nước sử dụng để rửa thịt hay do thiếu vệ sinh trong khâu bảo quản thực phẩm.
Bảng 2
Chú thích, diễn giải: Xem cách diễn giải trong bảng 1 |
Thứ hai, không phải vi khuẩn E. coli nào cũng gây bệnh tiêu chảy. Cần biết rằng tiêu chảy do nhiều vi khuẩn, siêu vi khuẩn và vật ký sinh gây ra. Trong số này, E. coli là một nguyên nhân. Ước tính, chỉ có khoảng 4% những người bị nhiễm E. coli mắc bệnh tiêu chảy. Do đó, không nên dựa vào sự hiện diện của E. coli trong thực phẩm để xem đó là nguyên nhân của tình trạng bộc phát bệnh hiện nay. Chúng ta cần phải tập trung vào nguồn gốc của vấn đề, đó là vi khuẩn tả và nguồn nước.
Thứ ba, mối liên hệ giữa E. coli và bệnh tiêu chảy khá yếu, và chỉ phát hiện ở trẻ em chứ không phải ở người lớn. Như trình bày trong hai nghiên cứu ở VN, một số người mắc tiêu chảy và không tiêu chảy đều nhiễm vi khuẩn E. coli, nhưng vì sự khác biệt giữa hai nhóm còn quá thấp nên chúng ta vẫn chưa có bằng chứng để kết luận rằng bất cứ ai bị nhiễm E. coli đều tiêu chảy. Tuy nhiên, ở trẻ em, chúng ta có thể phát biểu rằng nhiễm E. coli làm tăng nguy cơ bệnh tiêu chảy.
Nhưng việc các quan chức y tế tập trung vào “tâm điểm” E. coli, theo tôi, có lẽ đó là một sai lầm về chiến lược và định hướng phòng bệnh tả. Cần phải khẳng định rằng tiêu điểm của chúng ta là bệnh tả, chứ không phải tiêu chảy vốn khá phổ biến trong cộng đồng. Chúng ta biết rằng bệnh tả do vi khuẩn tả (V. cholera) gây nên và vi khuẩn này xuất phát từ nguồn nước bị nhiễm dẫn đến thực phẩm bị nhiễm. Do đó, chiến lược phòng bệnh phải tập trung vào việc ưu tiên làm sạch nguồn nước, kế đến là vệ sinh cá nhân và an toàn thực phẩm. Ngoài ra, phòng bệnh bằng vắc-xin ở quy mô cộng đồng cũng có thể đem lại hiệu quả cao.
Còn nhớ, khi bệnh tả bộc phát vào năm ngoái, mắm tôm là tâm điểm của giới y tế vì có ý kiến cho rằng mắm tôm là “thủ phạm” gây bộc phát bệnh. Nhưng nay chúng ta biết rằng kết luận đó sai và mắm tôm đã được “minh oan”. Lúc đó, ngay sau khi có ý kiến về mối liên hệ giữa mắm tôm và vi khuẩn tả, người viết bài này đã trình bày kết quả nghiên cứu trong y văn cho thấy mắm tôm không thể là thủ phạm gây nên bệnh tả. Hy vọng các bằng chứng khoa học tôi vừa trình bày giúp tránh sai lầm thứ hai trong công tác phòng chống bệnh tả và tiêu chảy lần này.
Bình luận (0)