“Cách đây chưa lâu, một chuyên gia nước ngoài là tiến sĩ nổi tiếng về thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) cho nhiều cặp vợ chồng trên thế giới nhưng lại thất bại với ngay chính gia đình mình. Sau đó, ông đến Việt Nam để tham gia thực hiện kỹ thuật này và đã thành công. Đây là một bất ngờ trong giới chuyên môn về hỗ trợ sinh sản. Con trai của vị tiến sĩ này nay đã lên 5 và hình ảnh của bé được in lên sách về TTTON” - GS - BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng, Chủ tịch Hội Nội tiết sinh sản - Vô sinh TPHCM, nhớ lại.
Nhiều người nước ngoài đến điều trị
Trường hợp trên chỉ là điển hình cho thành tựu TTTON tại Việt Nam sau 16 năm phát triển. Theo Hội Nội tiết sinh sản - Vô sinh TPHCM, cả nước hiện có 15 trung tâm TTTON và đến nay, hơn 10.000 trẻ đã ra đời nhờ kỹ thuật này. Ngoài ra, Việt Nam là nơi thực hiện TTTON nhiều nhất khu vực Đông Nam Á với tỉ lệ thành công cao và thực hiện hầu hết các kỹ thuật điều trị vô sinh trên thế giới.
GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho biết từ năm 2000, Việt Nam bắt đầu nhận TTTON cho người nước ngoài và ngày càng thu hút họ đến nước ta. Theo thống kê chưa đầy đủ, chỉ riêng tại 3 trung tâm lớn trên địa bàn TPHCM là 3 bệnh viện (BV) An Sinh, Vạn Hạnh, Từ Dũ, mỗi trung tâm tiếp nhận điều trị, hỗ trợ sinh sản TTTON cho khoảng 200 trường hợp người nước ngoài/năm và con số này ngày càng gia tăng. Trong đó, BV An Sinh mỗi năm có 100-150 trường hợp điều trị TTTON cho người nước ngoài.
Theo GS-BS Phượng, TTTON là một kỹ thuật phức tạp, bao gồm nhiều quy trình y học và sinh học, sản phẩm cuối cùng là con người. “Nhiều người nước ngoài đến TTTON ở nước ta có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao uy tín của nền y học nước nhà. Họ phải có một niềm tin rất lớn mới đến do kết quả điều trị không chỉ liên quan bản thân họ mà còn đến sức khỏe của em bé sau này” - bà Phượng nhấn mạnh.
Trở thành trung tâm đào tạo
Theo các chuyên gia y tế, kỹ thuật TTTON của Việt Nam hiện đã phát triển thành công dù đi sau nhờ nhiều yếu tố. Đó là được đầu tư thiết bị tiên tiến; cán bộ y tế lĩnh vực này đều trẻ, được đào tạo bài bản ở nước ngoài, có kinh nghiệm và kiến thức nền tảng tốt; tổ chức được những hội thảo nhóm hằng năm có chất lượng chuyên môn cao, đi sâu vào học thuật; đội ngũ BS, nhân viên hỗ trợ LAB, điều dưỡng… giao tiếp tiếng Anh tốt.
Có nhận định cũng chỉ ra rằng một trong những yếu tố góp phần vào thành công này là do chi phí thấp. Cụ thể, một ca TTTON ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3 so với khu vực và 1/6-1/8 so với Mỹ. Tuy nhiên, GS-BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng cho rằng đây không phải là điều quan trọng để thu hút bệnh nhân mà rất nhiều yếu tố, trong đó có chất lượng nguồn nhân lực, đóng vai trò rất quan trọng.
Theo Hội Nội tiết sinh sản - vô sinh TPHCM, với việc ngày càng nhiều nghiên cứu được báo cáo tại các hội nghị khoa học quốc tế và đăng trên tạp chí quốc tế, hình ảnh y học nước nhà, nhất là lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, càng vang xa. Năm 2004, việc đào tạo, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ cho các đồng nghiệp trong khu vực và trên thế giới đã được triển khai. Năm 2011, với sự ra đời của Trung tâm Nghiên cứu về di truyền và sức khỏe sinh sản (Khoa Y ĐH Quốc gia TPHCM), Việt Nam trở thành 1 trong 4 trung tâm đào tạo về hỗ trợ sinh sản lớn của châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc) và hiện mỗi năm vẫn tiếp nhận đào tạo, huấn luyện cho nhiều BS nước ngoài.
Vừa qua, lần đầu tiên, Việt Nam cũng đào tạo kỹ thuật mới về hỗ trợ sinh sản nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) cho đoàn chuyên gia do một BV lớn nhất Singapore gửi đến. Theo ThS - BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về di truyền và sức khỏe sinh sản, dù có thâm niên trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản nhưng các học viên Singapore rất mong muốn đồng nghiệp trẻ của Việt Nam chia sẻ chuyên môn. Cùng với khóa huấn luyện này, nhiều học viên các nước khác cũng tìm đến Việt Nam. Điều này từng bước khẳng định vị trí của Việt Nam trong lĩnh vực hỗ trợ sinh sản, không chỉ về kinh nghiệm điều trị, nghiên cứu khoa học mà còn là một trung tâm đào tạo cho khu vực.
Vô sinh, hiếm muộn chưa giảm Theo BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, Phó Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, tình trạng khám, điều trị vô sinh ngày càng tăng. Ở nữ giới, ngoài các nguyên nhân vô sinh do bệnh lý như u xơ tử cung, dị dạng tử cung - âm đạo, buồng trứng đa nang… thì vấn đề nạo phá thai không an toàn, viêm nhiễm sinh dục cũng góp phần làm tăng tỉ lệ hiếm muộn. Đối với nam giới, bên cạnh bất thường về tinh trùng, rối loạn cương dương, nhiễm khuẩn sinh dục…, việc giảm ham muốn tình dục do lao động căng thẳng cũng gây nên tình trạng trên. |
Bình luận (0)