Khoảng thời gian đầu thai kỳ là lúc các thai phụ thường lo lắng nhất bởi cơ thể thường mệt mỏi do các thay đổi, thai nhi còn non yếu. Rồi đến cuối thai kỳ, dù cơ thể đã nặng nề nhưng đa phần các bà bầu ít lo lắng hơn vì tin rằng thai nhi đã cứng cáp. Tuy nhiên, theo các bác sĩ (BS), giai đoạn nào của thai kỳ cũng có những mối nguy riêng của nó.
Cần theo dõi kỹ thai kỳ
Bế đứa cháu gái mới chào đời tại Bệnh viện (BV) Từ Dũ, chị Nguyễn Thị N.Q - ngụ quận Bình Thạnh, TP HCM - cho biết chị gái mình vẫn còn khá yếu vì phải trải qua một cơn chuyển dạ đầy rủi ro. “Chị tôi ở quê, lên BV tỉnh khá xa nên chỉ thăm khám thai mấy tháng đầu, sau đó nghĩ con cũng cứng cáp rồi, lại không có biểu hiện gì đáng ngại… nên cũng yên tâm chờ đến ngày sinh. Ai dè, cận ngày sinh, càng ngày chị càng thấy mệt mỏi. Gần đây, chị lên TP HCM để chuẩn bị sinh nở, trước ngày dự sinh 2 tuần, chị bỗng cảm thấy mệt mỏi, đi BV gần nhà khám thì họ chuyển thẳng đến đây vì sợ rằng chị sẽ đẻ non và bị sản giật trong lúc sinh. “Vào đầu thai kỳ, chị tôi đi khám, thấy huyết áp cao hơn bình thường một tí nhưng chị cứ nghĩ mình mới 30 tuổi, đứa con đầu sinh cũng suôn sẻ nên không ngại. Ai ngờ, lúc nhập viện kiểm tra lại thì huyết áp lên rất cao” - chị Q. kể.
PGS-TS-BS Huỳnh Nguyễn Khánh Trang, Trưởng Khoa Sản bệnh BV Hùng Vương, cho rằng có những căn bệnh hầu như không gây ảnh hưởng gì nhiều ở giai đoạn đầu của thai kỳ nhưng đến những tháng cuối, thậm chí đến khi chuyển dạ, mức độ nguy hiểm mới bộc lộ thực sự. Ông lấy ví dụ ở những thai phụ bị hẹp van động mạch phổi nguyên phát, tình trạng mang thai làm thay đổi huyết động và càng gần ngày sinh, thể tích máu càng tăng lên khiến trái tim phải làm việc nhiều hơn dẫn đến việc thai phụ có thể suy tim cấp khi chuyển dạ, nguy cơ tử vong cao. Trong khi đó, ở các tháng đầu thai kỳ, thai phụ mắc chứng này hầu như không gặp vấn đề gì, em bé có thể suy dinh dưỡng nhưng vẫn phát triển được. Vì thế, nếu quản lý thai kỳ không tốt, không phát hiện sớm và có các biện pháp đề phòng tình huống xấu, kết cục sẽ khó lường.
Nên tránh những thói quen xấu
Theo BS Bùi Văn Hoàng, Phó trưởng Phòng Kế hoạch tổng hợp BV Từ Dũ, có một số loại bệnh mà giai đoạn cuối thai kỳ mới thực sự là lúc mẹ và bé dễ bị ảnh hưởng nhất: viêm nhiễm đường sinh dục dưới (gây rỉ ối, vỡ ối sớm, nhiễm trùng ối, chuyển dạ sinh non…), cao huyết áp thai kỳ (gây hiện tượng nhau bong non, sản giật, xuất huyết não, rối loạn đông máu, suy gan, suy thận...), đái tháo đường thai kỳ (không kiểm soát tốt có thể làm thai lưu, sinh khó do thai to dẫn đến đái tháo đường sau thai kỳ…), bệnh cường giáp (gây cơn bão giáp đe dọa tính mạng lúc chuyển dạ), bệnh tim (mẹ suy tim, con sinh non, suy hô hấp, tử vong…)… Thai phụ có các bệnh này cần được quản lý thai kỳ chặt chẽ cũng như cần sinh con ở một BV tuyến trên - nơi có đầy đủ phương tiện để đối phó với một cuộc sinh nhiều rủi ro.
Ngoài ra, khi thai đã to, một số thói quen sinh hoạt xấu có thể gây hại hoặc trở ngại cho cuộc sinh. Đó là thói quen hút thuốc, uống rượu, thức khuya, lao động quá sức…
Thai phụ nên tránh những tư thế không phù hợp khi bụng bầu ngày một to ra. Ví dụ, không nên leo trèo, khuân vác đồ nặng hay di chuyển trên giày cao gót vì dễ ngã; không làm những việc phải gập người lên xuống thường xuyên vì sẽ ảnh hưởng đến cột sống, sự lưu thông máu dẫn đến choáng váng và té ngã; thay đổi tư thế đột ngột cũng có thể gây choáng; ngồi bắt chéo chân hay đứng quá lâu có thể làm cản trở lưu thông máu khiến các triệu chứng phù, giãn tĩnh mạch vốn thường gặp ở thai phụ trở nên nặng thêm.
“Nên lưu ý, các hoạt động gắng sức trong giai đoạn cuối thai kỳ có thể khiến thai phụ sinh non” - BS Hoàng nhấn mạnh.
Khi nào nên đến ngay bệnh viện?
Theo BS Bùi Văn Hoàng, dù đến ngày dự sinh hay chưa, nếu gặp một cơn đau chuyển dạ, thai phụ cần đến ngay BV. Cơn đau chuyển dạ là những cơn gò có khoảng nghỉ nhưng khoảng nghỉ dần ngắn lại, càng lúc càng gò mạnh hơn gây cảm giác đau nhiều hơn từ vùng lưng dưới chuyển sang bụng dưới. Cũng phải vào BV nếu có hiện tượng ra máu hoặc nhớt hồng từ âm đạo, rỉ ối hoặc vỡ ối. Về phía thai nhi, luôn theo dõi bằng cách đếm cử động thai ít nhất 1 lần trong ngày, mỗi lần 30 phút. Thông thường, thai nhi khỏe mạnh có hơn 4 lần cử động trong 1 giờ. Nếu thai nhi cử động ít hơn, thai phụ phải đi nằm và đếm cử động thai trong khoảng 2-4 giờ. Nếu trong 4 giờ, thai nhi có ít hơn 10 cử động thai hay cử động yếu hơn bình thường thì thai phụ nên nhập viện.
Bình luận (0)