Bác sĩ Nguyễn Hoàng Bắc, Trưởng trung tâm Phẫu thuật nội soi bệnh viện Đại học Y dược TP HCM, cho biết, viêm ruột thừa là một bệnh ngoại khoa phổ biến và cấp cứu nhiều nhất. Bệnh nhân thấy đau bụng ở vùng hố chậu phải, sốt, chán ăn, có thể kèm rối loạn tiêu hóa. Bệnh cấp tính nên diễn tiến nặng trong vòng 1-2 ngày. Có trường hợp tự ổn định rồi hết nhưng rất hiếm và tái diễn thành mãn tính. Tuyệt đại đa số sẽ diễn biến hóa mủ, hoại tử, vỡ vào ổ bụng gây nhiễm trùng rất nặng gọi là viêm phúc mạc. Nếu không xử lý kịp, bệnh nhân sẽ tử vong.
Vì vậy, khi thấy đau ở vùng hố chậu phải và sốt thì đến ngay cơ sở y tế để được thăm khám, biện pháp điều trị duy nhất là cắt bỏ. Tuy nhiên, đôi khi bệnh nhân đau hố chậu phải, có sốt nhưng không phải viêm ruột thừa và bác sĩ cần có thời gian theo dõi để chẩn đoán chính xác. Nếu chẩn đoán muộn, viêm ruột thừa có biến chứng đã hoại tử, viêm phúc mạc, việc điều trị sẽ khó khăn hơn, nhiều biến chứng hơn và bệnh nhân có thể bị dính ruột, gây tắc ruột sau mổ. Vì vậy, nhiều bác sĩ muốn chẩn đoán sớm cho bệnh nhân, có quyết định mổ trong giai đoạn sớm dù lúc này triệu chứng chưa rõ ràng hoặc chưa chắc chắn, có thể nhầm với bệnh khác.
Một số bệnh khác cũng có triệu chứng đau hố chậu phải, dễ bị nhầm với viêm ruột thừa, đặc biệt là ở phụ nữ trẻ tuổi như đau bụng kinh, u nang buồng trứng xoắn, vỡ nang hoàng thể… Vì vậy, bác sĩ cần khám một cách kỹ lưỡng về triệu chứng đau bụng, triệu chứng nhiễm trùng, làm xét nghiệm máu, siêu âm bụng. Nhiều trường hợp triệu chứng mơ hồ mà bác sĩ không thể loại trừ hẳn viêm ruột thừa và bắt buộc mổ; điều này có thể làm tăng tỷ lệ “mổ bụng trắng” hay mổ ruột thừa không viêm.
Đối với những bệnh nhân được chẩn đoán viêm ruột thừa nhưng mổ ra thấy không phải thì cần xác định nguyên nhân gây đau; có thể là một bệnh khác trong ổ bụng. Có trường hợp ruột thừa viêm giai đoạn đầu, biểu hiện không rõ ràng, nhưng nếu không cắt thì bệnh sẽ diễn biến tiếp tục sẽ dẫn đến viêm ruột thừa sau mổ, gây khó khăn cho việc theo dõi diễn biến sau mổ của bệnh nhân.
Bác sĩ Nguyễn Hùng Vĩ, Giám đốc bệnh viện Đa khoa trung tâm Tiền Giang, cho biết, ở các nước tiên tiến, để tránh tình trạng bị bệnh nhân kiện đòi bồi thường do chậm mổ làm ruột thừa vỡ mủ, thông thường bác sĩ sẽ chỉ định mổ sớm. Khi mổ ra mà thấy ruột thừa không viêm, họ chủ trương “thà cắt nhầm còn hơn bỏ sót”. Tỷ lệ bệnh nhân bị cắt ruột thừa không cần thiết chiếm khoảng 20-40%, có nơi còn cao hơn. Riêng bệnh viện Đa khoa trung tâm Tiền Giang, trước 2004 mổ khoảng 1.000 ca ruột thừa mỗi năm, trong đó khoảng 300 ca không viêm. Tuy nhiên, từ đầu năm nay, bệnh viện ra quy định cấm bác sĩ cắt ruột thừa không viêm. Nhờ vậy mà chín tháng qua chỉ có 65 ca bị cắt “nhầm” trên tổng số 930 ca mổ ruột thừa tại bệnh viện.
Theo bác sĩ Vĩ, việc cắt ruột thừa không viêm sẽ gây ra nhiều tác hại về mặt sức khỏe và kinh tế. Một tài liệu nghiên cứu của Mỹ năm 2002 cho thấy, nguy cơ nhiễm trùng ở các trường hợp cắt ruột thừa không viêm là 2,6%, trong khi có viêm là 1,8%. Nguy cơ tử vong do cắt ruột thừa không viêm là 1,5%, gấp 7 lần trường hợp có viêm. Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, cắt ruột thừa không viêm sẽ để nhiều di chứng như: tắc ruột, dính ruột, vô sinh, thai ngoài tử cung…
Bác sĩ Vĩ cho rằng, nếu tất cả phòng mổ tuyến huyện đều được đầu tư phương tiện chẩn đoán và mổ nội soi như bệnh viện tỉnh thì tỷ lệ cắt ruột thừa không cần thiết sẽ giảm.
Bình luận (0)