Công trình nghiên cứu của Moren - nhà khoa học Pháp về tác hại của rượu trong những gia đình có bốn đời nghiện rượu, cho kết quả đáng kinh ngạc. Đối tượng nghiện rượu thế hệ thứ nhất kém tư cách, thế hệ thứ hai suy đồi đạo đức, đời thứ ba loạn thần kinh và đời thứ tư là những hậu duệ đần độn. Còn theo các thầy thuốc thì rượu là nguyên nhân gây viêm loét dạ dày, xơ gan, ung thư gan, xơ vữa mạch máu, tăng huyết áp, suy nhược thần kinh, bất lực.
Chúng ta vừa đề cập đến tác hại của rượu, nhưng cũng có loại rượu co áích cho sức khỏe như rượu vang đỏ, rượu thuốc. Nói đến rượu thuốc, người ta liên tưởng đến cơ man nào rượu mít, rượu nhãn, rượu chuối hột, rượu rắn, tắc kè, bìm bịp, hải mã... Giới sành điệu, kén rượu còn chịu khó sưu tầm nhiều thứ rượu trân quý như Trường xuân tửu, Hồi xuân bổ ích tửu, Diên linh bất lão tửu, Thần tiên tửu...
Với đủ tác dụng, từ chữa phong thấp, đau lưng, mỏi gối đến tráng dương bổ thận, tăng cường sinh lực, kéo dài tuổi thọ. Cơ thể con người, bệnh tật hay khỏe mạnh, thọ hay yểu là do thuận lẽ âm dương hay không. Mất quân bình âm dương tất dẫn đến bệnh tật và cái chết. Rượu thuốc có nhiều loại bổ âm, bổ dương, điều hòa âm dương và cũng có chỉ định và chống chỉ định. Ví dụ một người thể trạng âm hư lại dùng rượu dành cho người dương hư, sẽä sinh rối loạn khí huyết, chẳng lợi còn thêm hại. Người thể tạng âm hư thường gầy gò như cây khô thiếu nước.Vì âm hư nên sinh nội nhiệt, lòng bàn tay, bàn chân luôn nóng, họng khô, hay khát. Người âm hư dù ốm yếu, da mặt lại có vẻ hồng hào, hay có mồ hôi âm, thường táo bón, chóng mặt, mất ngủ, là đàn ông có thể mộng tinh, tính khí nóng nảy. Ngược lại người dương hư cho dù mập mạp lại luôn mệt mỏi, sợ lạnh, dễ cảm. Tạng người này mặt mũi trắng bệch, tay chân lạnh, miệng lạt nhưng ít khát, là đàn ông thường nhược dương hoặc bất lực.
Xin giới thiệu hai loại rượu tiêu biểu dành riêng cho người bị chứng âm hư hoặc dương hư.
Cung Đình Phu Tử, bút hiệu Vân Lâm, vốn là một danh y, cũng là bậc văn nhân nổi tiếng thư pháp rồng bay phượng múa. Y thuật ông người đời tôn là thần y. Song, cái để dân nghiền rượu nhớ ông là bài thuốc ngâm rượu ''để đời'' của ông. Công thức bài thuốc rượu ''Thần tiên diên thọ tửu'' gồm tri mẫu 40 g, bạch linh 40g, bạch thược 40 g, xuyên khung 40 g, ba kích 40 g, tiểu hồi 40g, đỗ trọng 40 g, ngưu tất 40 g, mạch môn 40 g, thiên môn 40 g, thục địa 40g, sinh đáịa 40 g, câu kỷ tử 40 g, đương quy 40 g, nhục thung dung 40 g, bá tử nhân 12 g, hoàng bá 50 g, phá cố chỉ 24 g, sa nhân 24 g, bạch truật 24 g, mộc hương 12 g, nhân sâm 12 g, thạch xương bồ 12 g, viễn chí 24 g. Tất cả thái nhỏ cho vào khạp sành với 7 lít rượu 450, đun nhỏ lửa trong ba tuần hương rồi bịt kín miệng chôn dưới đất ba ngày đêm.
Nếu không đun lửa phải ngâm ba tháng mới. dùng được. Mỗi lần dùng 3cc, ngày uống 2 lần trước bữa ăn hoặc trước khi ngủ. Đây là loại rượu thuốc có tác dụng chống lão hóa, kéo dài tuổi xuân, tuổi thọ, đặc biệt chỉ dùng cho người âm hư. Đứng đầu trong nhóm rượu dành cho người dương hư là ''Minh Mạng thang”. Ngoài giá trị dược lý, bài thuốc nổi tiếng nhờ ''kỷ lục'' có đến 142 con của vua Minh Mạng.
Có lẽ vì vậy, bài thuốc đã vượt cung đình, lưu truyền khắp dân gian. Tuy nhiên từ lâu xuất hiện cả ba bài thuốc đều được gọi ''Minh Mạng thang'' gây hoang mang, không biết bài nào mới là chính thống. Thực ra cả ba bài đều do thái y triều Nguyễn đặc chế phục vụ long thể qua các thời kỳ khác nhau. Vì chỉ dùng cho vua các bài thuốc đều gọi chung theo tên vua, kỳ thực mỗi bài còn có tên khác theo dược lực, chỉ định riêng.Bài thứ nhất ra đời theo yêu cầu ''nhất dạ ngũ giao'' của vua, nên nó được gọi luôn bằng cái tên ''độc đáo'' này. Bài thuốc có tác dụng bổ khí huyết, ích thận, dưỡng thần, tăng cường sinh lực. Nhưng có lẽ chưa đủ ''đô'' bài này được thay bằng ''Nhất dạ lục giao thang'' đại bổ tâm, thận, cường dương, tráng khí.
Có thể vì quá ''sung'' phung phí sức lực, đức vua đau lưng mỏi gối nên ''yêu cốt thống dược tửu''- bài Minh Mạng thang thứ ba lại ra đời, bài này ngoài tác dụng bổ thận, ích khí còn chữa lao nhọc, đau lưng và xương khớp. Thành phần bài thuốc này gồm: Lão thục địa 40 g, phòng đảng sâm 40 g, câu kỷ tử 40 g, bắc đỗ trọng 40 g, hoàng tinh 40 g, nhục thung dung 40 g, sinh hoàng kỳ 20 g, xuyên tục đoạn 20 g, xuyên quy 20 g, dâm dương hoắc 20 g, long nhãn nhục 20 g, đại táo 30 g. Tất cả cho vào keo (lọ thủy tinh lớn) ngâm với 3 lít rượu 45 độ sau một tuần, hòa tan 2 g đường phèn với nước sôi, pha vào rượu. Sau mười ngày lược rượu để riêng, xác thuốc ngâm thêm một lần nữa. Ngày dùng 3 lần sau 2 bữa ăn và trước lúc ngủ 30 ml rượu.
Bình luận (0)