Trong đời người, chắc hẳn ai cũng có khá nhiều lần đau và sốt. Thực vậy, đau và sốt là 2 triệu chứng chính cảnh báo sức khỏe của bạn đang có vấn đề, cần phải quan tâm đặc biệt.
Tầm quan trọng của sốt
Trong cơ thể con người, nhiệt độ là 1 trong 4 dấu hiệu sinh tồn quan trọng (mạch, huyết áp, nhiệt độ và nhịp thở). Trong đó, nhiệt độ là một chỉ báo đơn giản, khách quan và chính xác nhằm báo hiệu trạng thái sinh lý của cơ thể con người.
Nhiệt độ cơ thể ít bị nhiễu từ các yếu tố kích thích bên ngoài hay yếu tố tâm lý của con người như mạch, huyết áp và nhịp thở. Chính vì vậy, sốt là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng trong việc đánh giá tình trạng sức khỏe cũng như mức độ trầm trọng của bệnh tật. Thậm chí, nó còn giúp thầy thuốc đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng lên cơ thể của một phương pháp điều trị bệnh nào đó đang được áp dụng cho bệnh nhân.
Từ khi con người nói riêng và động vật có vú nói chung được hình thành, sốt là một phản ứng tự vệ của cơ thể. Nó vừa có tác dụng bảo vệ sức khỏe vừa có tác dụng xấu đối với sức khỏe của con người.
Lợi và hại
Hằng ngày tại bệnh viện, người ta thấy một số ít bệnh nhiễm trùng ở người và dấu hiệu sốt cao rõ ràng là điều có lợi cho bệnh nhân. Chẳng hạn bệnh giang mai, viêm đa khớp dạng thấp hay ung thư di căn.
Ở những bệnh này, các nhà khoa học nhận thấy những đáp ứng miễn dịch của cơ thể tăng lên khi bệnh nhân bị sốt. Điều này rất có lợi cho cơ thể trong quá trình sử dụng các chất trung gian hóa học nhằm chống lại bệnh tật. Ở những người già yếu, khi mắc các bệnh nhiễm trùng, họ có thể không bị sốt hoặc sốt rất ít. Đây lại là một dấu hiệu không tốt cho sức khỏe và tiên lượng bệnh.
Tuy có nhiều lợi ích đối với sức khỏe nhưng tác hại của sốt đối với con người cũng khá nhiều. Đầu tiên, sốt làm gia tăng quá trình chuyển hóa của cơ thể, làm teo cơ bắp, gia tăng nhịp tim, tăng tiết mồ hôi dẫn đến mất nước và muối, nếu nặng có thể dẫn đến rối loạn nước và điện giải.
Thông thường, sốt hay đi kèm với tình trạng khó chịu do nhức đầu, sợ ánh sáng, mệt mỏi toàn thân, thường nóng bức quá mức. Rét run và vã mồ hôi do sốt nhiễm khuẩn trở thành cực hình đối với nhiều người bệnh. Sốt cao có thể thúc đẩy quá trình hình thành những cơn co giật ở những người có tiền sử động kinh. Sốt cao còn đặc biệt nguy hiểm ở những người cao tuổi đang mắc bệnh tim hay bệnh mạch máu não.
Xử lý sốt
Sốt thông thường ít gây tác hại, không làm khó chịu nhiều và có thể có lợi đối với cơ chế phòng chống bệnh tật của con người. Trong trường hợp này, việc dùng thuốc hạ nhiệt không phải là điều cốt yếu giúp người bệnh dễ chịu. Mặt khác, sốt có thể gây nhiễu cho thầy thuốc trong việc đánh giá hiệu quả điều trị hoặc diễn biến của bệnh.
Tuy nhiên, cũng có khá nhiều trường hợp việc hạ sốt là rất quan trọng và có tính chất sống còn, như: trúng nóng, sốt cao sau mổ, hôn mê do sốt cao, sốt cao co giật hoặc sốc có kèm sốt và suy tim.
Dùng khăn chườm lạnh để hạ thấp thân nhiệt là phương pháp điều trị được áp dụng đầu tiên và rất có hiệu quả. Một số trường hợp có thể tưới dung dịch muối sinh lý để lạnh hay đặt các khăn lạnh lên trán, lên người. Các loại thuốc hạ nhiệt có thể được dùng sau đó. Tuy nhiên, các loại thuốc hạ nhiệt đang sử dụng rộng rãi có thể làm vã mồ hôi, rét run, giảm huyết áp... Để giảm bớt hiện tượng này, cần khuyến khích bệnh nhân uống nhiều nước, uống thuốc nhiều lần và cách nhau 2-3 giờ.
Việc xoa cồn làm mát cơ thể như một cách hạ sốt là không có lợi vì nó có thể gây kích ứng khiến bệnh nhân khó chịu.
Bình luận (0)