Những ưu điểm
Thuốc ngủ thế hệ nào khi dùng cũng phải có sự theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc.
Thuốc ngủ thế hệ mới không có cấu trúc benzodiazepine, gọi chung là nhóm nonbenzodiazepin bao gồm: zolpidem (ambien, ivedal), eszopiclon (lunesta), zalepon (sonatra, starnoc)...
Nếu như benzodiazepin (thuốc ngủ thế hệ cũ) tác dụng lên thụ thể GABA-A ở týp alpha -1 (chịu trách nhiệm về giấc ngủ), đồng thời ở týp alpha 2-3-5 (chịu trách nhiệm về lo âu, quên, giãn cơ) nên có hiệu ứng gây ngủ, giải lo âu, giãn cơ song lại gây trạng thái "quá thoải mái" (phởn phơ) nên bị lạm dụng như ma túy và gây "hội chứng lệ thuộc thuốc", thì các thuốc ngủ mới nonbenzodiazepin, tuy không có cấu trúc benzodiazepin nhưng cũng có tác dụng trên thụ thể GABA-A chủ yếu ở týp alpha -1 nên có hiệu ứng gây ngủ, nhưng ít các tác dụng phụ hơn các benzodiazepin.
Do vậy, có thể dùng trong 2- 6 tuần (theo FD) hay 4 tuần (theo Australia). Trong thực tế cũng có nghiên cứu dùng trong 6 tháng (đối với zolpidem) không ghi nhận tai biến, nhưng chưa được ứng dụng trong lâm sàng.
Và những nhược điểm...
Zolpidem cũng có tác dụng GABA-A yếu hơn ở týp alpha 2-3, không tác dụng với týp alpha 4-6 và omega- 5. Do tác dụng phức tạp này trên não mà zolpidem có hiệu ứng phức tạp trên giấc ngủ: xuất hiện rất nhanh giấc ngủ ở giai đoạn 1, song kém hiệu quả ở giấc ngủ giai đoạn 2, chất lượng giấc ngủ chưa tốt như giấc ngủ sinh lý. Hơn nữa do chu kỳ bán hủy ngắn (2 giờ) nên tổng thời gian ngủ không nhiều. Eszopiclon có cùng cơ chế tác dụng và tạo ra giấc ngủ tương tự zolpidem. Chỉ riêng zaleplon có cơ chế tác dụng khác hơn tạo ra giấc ngủ giống giấc ngủ tự nhiên.
Tuy mức độ các nhược điểm của các thuốc gây ngủ thế hệ mới gây ra có thấp hơn, không bằng benzodiazepine, song các thuốc ngủ mới nonbezodiazepin cũng gây ra trạng thái "quá thoải mái" và bị lạm dụng như ma túy, gây ra "hội chứng lệ thuộc thuốc".
Một số nghiên cứu cho biết dùng zolpidem lâu dài (thậm chí vài tuần) đã tăng tính "làm dịu" phát triển thành sự lệ thuộc thuốc. Nếu dùng lâu dài mà đột ngột ngừng thì bị các phản ứng nghịch thường như mê sảng, co giật hay các triệu chứng nghiêm trọng khác. Eszopiclon cũng gây ra hội chứng lệ thuộc thuốc như zolpidem. Zaleplon có gây ra hội chứng này nhưng ở mức thấp hơn hai chất trên.
Cả ba thuốc trong nhóm đều có thể gây ra một số trạng thái tâm thần phức tạp như suy giảm trí nhớ, giảm khả năng phân tích lý luận, thay đổi kiểu suy nghĩ, ảo giác (về thính giác, thị giác) ở các mức khác nhau, hoảng sợ, mất điều hòa (suy giảm vận động và phối hợp vận đông, dễ té ngã), tăng tính bốc đồng, thoải mái quá mức hay khó chịu, thèm ăn, tăng tính dục, nhức đầu (ở một số người), có hành vi bất thường, xa lánh thoát ly xã hội, xung khắc đối lập với người khác, mất nhân cách. Riêng eszopiclon còn gây ra gây ra trầm cảm, gây ý nghĩ tự sát.
Tuy cả ba thuốc đều được chỉ định cho người già khó vào giấc ngủ, hay bị thức giấc, rối loạn giấc ngủ mạn, nhưng vì cả ba đều gây ra các trạng thái tâm thần nói trên, đặc biệt là làm suy giảm trí nhớ, dẫn đến trạng thái thiếu tỉnh táo, lú lẫn, bị té ngã nguy hiểm (gãy xương hay tai nạn khác) nên phải thận trọng dùng cho người già. Trong thực tế việc nghiên cứu tính an toàn dài hạn chưa đầy đủ, còn cần phải làm thêm.
Riêng zolpidem còn gây ra các hiệu ứng bất thường trong nhận thức như nói chuyện trong lúc ngủ, đôi khi còn đáp ứng được một số câu hỏi như là tỉnh táo. Tình trạng này rất dễ nhận thấy sự bất thường này vì lời nói thường không liên hệ với thực tại, chứng tỏ chỉ là một sự rối loạn mà không xuất phát từ sự minh mẫn của trí óc. Đây là trạng thái "sleepwwaking", một trạng thái ghép (schizophasíc), giống như các trạng thái thường gặp trong bệnh tâm thần phân liệt (schizophrenia) rất nguy hiểm.
Tại Australia, năm 2007 có một người đàn ông đã chết do nhảy từ ban công xuống, điều tra cho biết trước đó người này đã dùng zolpidem. Tại Australia, zolpidem được đem ra xem xét tại ban tư vấn thực hành tốt điều trị (therapeupeutic good administration) và đưa ra lời cảnh báo: "Zolppidem có thể được kết hợp với một giấc ngủ phức tạp, nguy hiểm tiềm tàng liên quan đến hành vi "đi ngủ", "lái xe-ngủ" và các hành vi "kỳ dị" khác. Khi dùng thuốc không được uống rượu, cần thận trọng dùng khi phối hợp với các thuốc chống trầm cảm. Cần có sự giám sát chặt chẽ của y tế và không dùng thuốc quá 4 tuần.
Như vậy, thuốc ngủ thế hệ mới ít độc hơn các thuốc ngủ thế hệ cũ, có thể đáp ứng một phần nào mong muốn đề ra khi nghiên cứu, nhưng không hẳn đã loại bỏ được hoàn toàn các nhược điểm của thuốc cũ. Vì vậy, các thuốc này vẫn chưa thể là một thuốc dùng dài hạn được, cần tránh sự lạm dụng. Ngoài ra, đây là thế hệ thuốc mới, có thể còn có những công dụng mới hay tác dụng phụ khác chưa ghi nhận hết. Khi dùng chúng với mục đích gây ngủ hay với mục đích khác đều cần phải có sự theo dõi chặt chẽ.
Bình luận (0)