Ảnh: NGUYỄN THẠNH
Đông y cũng đã nhận ra bệnh này khá sớm nên đã thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Đan khê tâm pháp. Đông y cho rằng thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết bị ứ trệ tại khớp, gây đau và làm cho sự co duỗi khó khăn. Bệnh thoạt tiên bắt đầu ở cơ biểu, kinh lạc, bệnh lâu khiến tà khí vào gân xương, gây tổn thương tạng phủ, làm cho chức năng của khí huyết, tân dịch bị rối loạn.
Dấu hiệu của bệnh được thể hiện ở 2 dạng cấp và mạn. Nếu là dạng cấp tính sẽ thấy cơn đau khớp sưng tấy dữ dội, thường thấy tại khớp bàn chân, ngón cái và đau vào đêm (cũng có khi thấy ở các khớp khác như ngón chân, cổ chân, gối…). Khớp đau đỏ sẫm, ấn vào càng đau, làm giảm vận động cơ năng của khớp.
Bệnh cấp tính chuyển thành mạn tính biểu hiện viêm nhiều khớp nhỏ, vừa mạn và đối xứng, tái phát nhiều lần. Tại khớp có thể sưng, nóng, đỏ, đau không rõ và thường có sốt kèm theo và làm dị dạng khớp, co duỗi khó khăn, quanh khớp hay dưới da hoặc vành tai xuất hiện các u cục (hạt tophy) mềm không đau, trong hạt này chứa một chất bột màu trắng như phấn, đó là muối urat. Bệnh tiến triển lâu ngày gây viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu ra máu, suy thận cấp hay mạn.
Dựa theo các dấu hiệu bệnh chứng và nguyên do phát bệnh, đông y có phép biện chứng luận trị khác nhau.
- Với thể cấp tính: Biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt, đột ngột khớp ngón cái hoặc các ngón khác bị sưng nóng, đỏ, đau, không đụng vào được, lại kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch sáp.
Do vậy, trị liệu cần phải thanh nhiệt, thông lạc, khu phong, trừ thấp. Cần dùng phương “Bạch hổ gia quế chi thang gia giảm”, gồm các vị: Thạch cao 40 - 60 g (sắc trước), tri mẫu 12 g, quế chi 4 - 6 g, bạch thược 12 g, xích thược 12 g, dây kim ngân 20 - 30 g, phòng kỷ 10 g, mộc thông 10 g, gải đồng bì 10 g, cam thảo 5 - 10 g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần, suốt trong thời gian sưng đỏ nóng sốt.
Trường hợp thấp nhiệt nặng như sưng tấy, đau nhiều: Gia dây kim ngân 40 - 50 g, thổ phục linh, ý dĩ (tăng để trừ thấp) hoặc gia thuốc hoạt huyết như toàn đương quy, đan sâm, trạch lan, đào nhân, hồng hoa, tằm sa để hóa ứ chỉ thống. Trường hợp có biểu chứng thì gia các vị quế chi, độc hoạt, tế tân để giải biểu, tán hàn, chỉ thống.
- Với thể mạn tính: Biểu hiện nhiều khớp sưng đau, kéo dài, co duỗi khó, khớp sưng to, nóng, đỏ không rõ ràng nhưng đau nhiều, dị dạng, kèm tê dại, da tím, sạm đen. Khi chườm nóng, bệnh nhân thấy dễ chịu, mạch trầm huyền hoặc khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng, là triệu chứng của hàn thấp, ứ trệ.
Trị liệu cần khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống. Dùng chế ô đầu 4 - 5 g, tế tân 4 - 5 g (sắc trước), toàn quy 12 g, xích thược 12 g, uy linh tiên 10 g, thổ phục linh 16 g, tỳ giải 12 g, ý dĩ nhân 20 g, mộc thông 10 g, quế chi 4 - 6 g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần.
Trường hợp sưng đau nhiều, cứng khớp, mạch hoãn hoạt, rêu lưỡi trắng bẩn dày, là triệu chứng của đàm trọc ứ trệ thì gia các vị như chích cương tàm, xuyên sơn giáp, hy thiêm thảo, hải đồng bì, để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm. Đau nhiều do huyết ứ, gây đau như bị dao đâm, mạch sáp, lưỡi tím bầm gia các vị ngô công, toàn yết, sao diên hồ sách để hoạt huyết, chỉ thống.
Trường hợp thận dương hư biểu hiện liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi bệu, mạch trầm, hoãn vô lực thì gia các vị như bổ cốt chỉ, nhục thung dung, cốt toái bổ để bổ thận, kiện cốt, định thống. Có triệu chứng khí huyết hư gia các vị hoàng kỳ, đương quy, nhân sâm, bạch truật…
Bệnh gout thường xảy ra với nam giới, gây đau nhức khó chịu, nếu không chữa trị sẽ làm thận suy. |
Bình luận (0)