icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Phát triển giáo dục đại học: Mở rộng đầu vào, “cứng hóa” đầu ra

PGS-TS Lương Ngọc Toản (nguyên Thứ trưởng Bộ GD-ĐT)

LTS: Mở rộng cánh cửa đại học, khai thông nhiều con đường vào đại học. Đó là đầu vào, còn đầu ra phải được “cứng hóa” để bảo đảm chất lượng giáo dục bằng một quy trình nghiêm ngặt. Đó là nội dung chính trong tham luận của PGS-TS Lương Ngọc Toản tại hội thảo “Đổi mới giáo dục đại học - Hội nhập và thách thức” được tổ chức tại Hà Nội trong 2 ngày 30 và 31-3, mà chúng tôi trích đăng dưới đây. Các tựa lớn và nhỏ do tòa soạn đặt.

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định rằng trong thời gian từ nay đến năm 2010 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Muốn thực hiện được điều này càng phải quan tâm đến mở rộng quy mô phát triển giáo dục đại học (ĐH). Giáo dục phải đi trước một bước trong việc thực hiện và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phải nâng tỉ lệ sinh viên trên một vạn dân từ 118 năm học 2000-2001 lên 200 vào năm 2010.Việc đó đòi hỏi phải mở rộng quy mô phát triển giáo dục ĐH, song song với việc nâng cao chất lượng đào tạo.

“Mềm hóa” đầu vào.- Trước hết tôi cho rằng chúng ta nên mềm hóa đầu vào để mở rộng quy mô giáo dục ĐH và cao đẳng (CĐ). Có nhiều người trình độ ĐH chúng ta có được nhiều người cùng tham gia giải các bài toán kinh tế - xã hội ở mỗi vùng, mỗi địa phương. Hầu hết các nước đều mở rộng quy mô ĐH, thậm chí như nước bạn Cuba, họ khó khăn hơn chúng ta rất nhiều, nhưng Cuba thực hiện chủ trương phổ cập ĐH. Chúng ta mới tuyển được 15% học sinh tốt nghiệp phổ thông vào học ĐH, trong khi Hàn Quốc tuyển đến 60% số học sinh này vào học ĐH.

Chúng ta cũng nên đưa khái niệm giáo dục sau trung học đang thịnh hành trên thế giới vào nước ta trong phạm trù phát triển ĐH. Giáo dục sau trung học này được nhiều nước gọi là giáo dục bậc 3, gồm không chỉ giáo dục ĐH truyền thống, mà bao gồm tất cả các trình độ học vấn cung cấp cho người đã tốt nghiệp trung học theo công thức 12+n (n có thể là năm, là tháng), nhưng phải làm sao thiết kế được sự liên thông giữa các con đường, các trình độ học vấn, để người học có thể chọn các cách học phù hợp nhất cho mình. Họ có thể học bên ngoài ĐH truyền thống lại có thể vào học được ĐH truyền thống, vào bất cứ năm học nào, miễn là đủ các điều kiện cần thiết và cũng có thể học ĐH nhiều lần, học nhiều trường ĐH trong cuộc đời. Nếu mở rộng không gian ĐH như vậy với sự “mềm hóa” đầu vào, gắn nó với việc học suốt đời, chắc chắn chúng ta sẽ mở rộng quy mô ĐH và sẽ giảm được áp lực của tất cả nước đi thi ĐH và CĐ ở mỗi mùa tuyển sinh ĐH và CĐ.

Hiện nay, thực trạng giáo dục Việt Nam tồn tại một cơ cấu rất bất hợp lý: “thừa thầy thiếu thợ”. Tháp trình độ lao động đang lộn ngược: số được đào tạo để trở thành công nhân lành nghề hoặc trung cấp kỹ thuật chiếm tỉ lệ rất ít, trong khi số học ĐH rất đông. Tuy nhiên, chúng ta không thể tạo hình tháp bằng việc thu hẹp số lượng ĐH ở phía trên, mở rộng chân tháp ở phía trên, mở rộng chân tháp ở phía dưới bằng việc tăng ngay quy mô đào tạo của các trường dạy nghề, trường trung cấp kỹ thuật lên. Chúng ta vẫn tạo được chân tháp rộng ra và vẫn giữ được hoặc thậm chí mở rộng quy mô phát triển ĐH, nếu một mặt mở rộng các hệ đào tạo công nhân lành nghề, trung cấp kỹ thuật, mặt khác tạo cơ chế liên thông, mở đường cho họ có thể lên ĐH bất cứ lúc nào, miễn là họ thực sự mong muốn học.

Cũng có thực trạng là cơ cấu ngành nghề rất mất cân đối trong giáo dục ĐH. Có tới 43% sinh viên học các ngành nghề kinh tế và luật, trong khi chỉ có 15% học các ngành khoa học cơ bản và khoa học công nghệ, 3,1% học các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Do vậy cấp quản lý vĩ mô phải có trách nhiệm điều tiết việc này.

Sự bất hợp lý trong cơ cấu vùng miền cũng cần được giải quyết. Các trường ĐH thường tập trung ở các thành phố lớn: Hà Nội, TPHCM, Thái Nguyên, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, còn những vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ thì rất ít trường. Nhiều tỉnh không có trường ĐH nào cả. Những sinh viên nông thôn ra thành phố học ĐH ít muốn về quê hương.Vì vậy rất nhiều vùng không có cán bộ công chức đạt tiêu chuẩn đào tạo. Tôi ủng hộ việc mở các trường ĐH ở các tỉnh và các vùng, miền còn chưa có hoặc có rất ít trường ĐH và CĐ. Một đất nước như Singapore, họ có 3 triệu dân là có tới hơn 20 trường ĐH, trong đó có nhiều trường ĐH của nước ngoài mở tại nước họ. Chúng ta cần và nên mở rộng các trường ngoài công lập, huy động sự đóng góp của các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh hình thành những công ty ĐH. Ngoài ra cũng nên mở rộng chủ trương cho nước ngoài vào mở ĐH ở Việt Nam. Bằng nhiều con đường như vậy, rõ ràng chúng ta có thể mở rộng mạng lưới ĐH, tạo nhiều con đường vào học ĐH cho thế hệ trẻ chúng ta.

Việc tuyển sinh ĐH cũng cần được xem xét “mềm hóa”. Nên cho các trường có thể xét tuyển, căn cứ vào kết quả ở trung học và kết quả thi tốt nghiệp trung học. Còn những trường do yêu cầu đào tạo nhân tài ở trình độ cao hoặc phải tuyển chọn năng khiếu thì có thể tổ chức thi riêng. Cũng nên cho phép các trường mở nhiều hệ khác nhau để những sinh viên không đủ khả năng học hệ này có thể chuyển xuống học hệ khác.

Chúng ta còn có thể mở rộng con đường ĐH bằng phương thức giáo dục từ xa mà GS Nguyễn Cảnh Toàn hết sức tâm huyết muốn mở rộng. Cũng cần dành sự chú ý hướng tới phát triển ĐH mở, hệ chuyên tu, tại chức kể cả tự học để cùng góp phần mở rộng cánh cửa ĐH cho những người muốn được học ĐH. Mở rộng quy mô ĐH để nhiều người được học ĐH cũng chính là bảo đảm công bằng trước các cơ hội được hưởng thụ nền giáo dục.

Bài toán chất lượng?.- Cùng với việc mềm hóa đầu vào mở rộng quy mô giáo dục ĐH, chúng ta nên cứng hóa đầu ra để bảo đảm chất lượng. Chúng ta mở rộng cửa ĐH cho những ai mong muốn “học thật”. Ở đây không có con đường cho những người “học giả”. Vì vậy phải làm sao để có chất lượng thật của giáo dục ĐH. Tôi cũng cho rằng vai trò của quản lý quyết định chất lượng giáo dục ĐH nói chung và chất lượng ĐH nói riêng. Hiện nay ta dồn quá nhiều sức lực vào việc tuyển sinh ĐH. Nhiều học sinh sau một thời gian quá mệt mỏi vì việc luyện thi ĐH, sau khi vượt qua được “vũ môn”, họ nghỉ xả hơi vì họ đã kiệt quệ sức lực. Việc sinh viên vào học ở trường ra sao, các trường đã chuẩn bị cho sinh viên những gì để học hành có chất lượng, có ai kiểm tra được việc này trong quá trình đào tạo không? Tôi đã được nghe một số sinh viên trường ĐH dân lập phản ánh: Khoa quản lý bệnh viện của chúng em chỉ có 4 thầy cô dạy tất cả các môn học! Các trường dân lập thường phải đi thuê phòng học. Ở những trường này hầu như không có các phòng thí nghiệm, phòng thực hành... Đây là những hiện tượng có thật, tôi hy vọng nó chỉ là cá biệt, song Bộ GD-ĐT ta đã có bao giờ làm những cuộc khảo sát về việc này chưa? Việc cho điểm cao hay thấp ở một số trường lại tùy thuộc vào việc sinh viên có phong bao cho thầy đến mức độ nào?! Ngay đến bảo vệ luận văn, người ta cũng phải chạy đủ các cửa, mỗi cửa đều phải có phong bao. Một nền giáo dục mà để hiện tượng mua bằng, bán điểm thì còn đâu là sự cao quý, còn đâu là chất lượng nữa. Cơ chế XIN-CHO đã thâm nhập từ lâu vào các trường ĐH, rất tiếc chưa bao giờ các cấp quản lý giáo dục phanh phui nó ra. Rõ ràng, nếu không có thanh tra chuyên môn, không có cách kiểm định chất lượng, chắc chắn chúng ta khó đạt được chất lượng giáo dục, ngay ở bậc giáo dục ĐH.

Chúng ta rất buồn về cái thời mà “thầy thì cần tiền, trò thì cần bằng”, cả hai phía cấu kết với nhau, tạo ra không biết bao nhiêu bằng cử nhân rởm. Cái thời mà có trường ĐH với một số CBGD không nhiều nhưng chạy đi liên kết mở rất nhiều lớp đào tạo cả ở những nơi đã có sẵn trường ĐH cùng ngành, cùng nghề. Họ chỉ huy động được một đội ngũ thầy dạy chắp vá, với một bộ phận quản lý nhỏ nhoi, không có trình độ. Bộ GD-ĐT hầu như không quản lý nổi những việc làm này của các trường ĐH đó. Kiểu tổ chức đào tạo như vậy làm sao có thể tạo ra chất lượng ĐH? Việc mở rộng mạng lưới ĐH dứt khoát phải đi liền với sự quản lý của Nhà nước. Đây cũng là một việc trong phạm trù cứng hóa đầu ra khi cho ra đời trường ĐH, CĐ mới. Mềm hóa đầu vào không có nghĩa là để ĐH phát triển một cách tự phát, không cần phải hội đủ những tiêu chí được Nhà nước quy định. Ngay quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường CĐ, trường ĐH cũng phải theo quy định của pháp luật. Điều đáng mừng là đã có Luật Giáo dục làm chỗ dựa cho ngành giáo dục triển khai nhiệm vụ quản lý của mình. Việc bảo đảm cứng hóa đầu ra về cơ bản đã nhận được luật hóa, chúng ta đã có điều kiện để thực hiện việc này.

Tôi hoan nghênh việc thành lập Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục ở Bộ GD-ĐT. Nhưng việc khảo thí và tiến hành thế nào, việc kiểm định chất lượng tiến hành ra sao, rất cần được nghiên cứu gấp. Có điều đừng nghĩ đơn giản rằng: Ai cũng có thể làm được việc này khi họ chưa hề được đi đào tạo. Cục Khảo thí và Kiểm định rất cần có những chuyên gia đánh giá nội bộ (audit) được đào tạo ở trình độ quốc tế. Cũng cần thấy rằng đừng để “cha đi kiểm tra con”, vừa đá bóng vừa thổi còi. Việc kiểm định như vậy sẽ thiếu khách quan và thiếu tin cậy. Tôi cho rằng đã đến lúc phải thực hiện quy tắc ba bên, cả trong thi cử, cả trong kiểm định chất lượng. Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng nên làm chức năng tổ chức biên soạn các bộ đề thi cho các trường. Các trường sử dụng bộ đề thi này để kiểm tra, đánh giá sinh viên một cách độc lập với người dạy các môn học. Có thế mới khắc phục được tệ nạn chạy chọt trong thi cử. Cũng vậy, khi kiểm định chất lượng giáo dục cần phải vận dụng quy tắc ba bên. Bên kiểm định phải khách quan, họ không phải chịu bất kỳ sức ép nào cả. Theo tôi, Cục khảo thí và Kiểm định chất lượng nên đứng ra tổ chức mời bên thứ 3 để kiểm định, đánh giá. Từ sự tự đánh giá của trường và kết quả kiểm định của bên thứ 3, cục trình bộ quyết định công nhận trình độ chất lượng của trường.

Phải tiến hành thi cử thật sự nghiêm túc, khách quan, khoa học. Phải bảo đảm rằng sản phẩm của các trường ĐH đào tạo là thứ thiệt, không phải thứ rởm. Đừng để những cử nhân rởm ra trường, vì loại sản phẩm này mà rởm sẽ mang lại hậu họa to lớn cho xã hội. Loại người này sẽ làm cho thủy lợi trở thành thủy hại, lâm nghiệp sẽ trở nên lâm nguy, các công trình xây dựng cũng trở thành

Nguyên tắc: Mở rộng cửa đại học cho những ai muốn “học thật”, không có con đường cho những người “học giả”. Muốn vậy phải có quy trình kiểm tra chất lượng giáo dục nghiêm ngặt và khoa học.

công trình rởm, mọi việc làm của họ cũng sẽ rởm, vì họ chính là sản phẩm rởm. Phải hết sức cứng ở đầu ra để thật sự bảo đảm chất lượng giáo dục ĐH.

Tóm lại, về phương hướng phát triển ĐH, phải tìm mọi biện pháp để mở rộng quy mô ĐH bằng việc mềm hóa đầu vào. Nhưng đây là lĩnh vực cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển đất nước nên cần cứng hóa đầu ra, từ việc cho ra đời các trường ĐH, CĐ mới, tới việc đào tạo sinh viên ra trường, dứt khoát phải đạt được chuẩn chất lượng...

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo