Giới sử học chia giai đoạn từ Đoàn Tư Bình lập quốc đến Đoàn Chính Minh là thời kỳ tiền Đại Lý, từ đời Đoàn Chính Thuần về sau là hậu Đại Lý. Giữa tiền và hậu Đại Lý chính là Đại Trung Quốc do Cao Thăng Thái lập ra.
Họ Cao qua mặt họ Đoàn
Trong “Thiên Long bát bộ” của Kim Dung thì Đoàn Chính Minh nhượng ngôi cho Đoàn Dự; đại thần Cao Thăng Thái được miêu tả là người nho nhã, võ công cao cường và là một bậc trung thần. Sự thật thì chính Cao Thăng Thái mới là người kế vị Đoàn Chính Minh, soán ngôi họ Đoàn.
Họ Cao khởi từ Cao Phương là khai quốc công thần, đời đời ở vị trí tể tướng của Đại Lý, quyền nghiêng thiên hạ. Đến đời Cao Trí Thăng, thế lực của họ Cao ảnh hưởng rất lớn tới chính quyền. Có thể thấy việc phế Đoàn Tố Hưng lập Đoàn Tố Liêm, phế Đoàn Thọ Huy lập Đoàn Chính Minh... đều có bàn tay của cha con Cao Trí Thăng, Cao Thăng Thái.
Cao Thăng Thái vốn giỏi văn lẫn võ, năm 14 tuổi đã biện luận với các quan đại thần ở Ngũ Hoa Lâu, nổi tiếng khắp Đại Lý. Hiện nay, cách Tử Khê Sơn, huyện Sở Hùng, tỉnh Vân Nam - Trung Quốc khoảng 20 dặm về phía Tây còn một di vật quan trọng của Đại Lý, đó là tấm bia “Hộ Pháp Minh Công Đức Vận Bi”. Bia được lập khoảng năm 1158 để ca tụng công đức của thừa tướng Đại Lý Cao Thành Lượng. Theo đó, tằng tổ phụ (ông cố) của Cao Thành Lượng là Cao Thăng Thái ban đầu là Thiện Xiển Hầu. Năm 1094, Đoàn Chính Minh “nắm quyền không tốt khiến nhân tâm đều hướng về họ Cao”. Sau đó, qua 3 lần từ chối, Cao Thăng Thái được quần thần thỉnh lên làm vua (?). Đoàn Chính Minh nhường ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Trung Quốc, lấy niên hiệu là Thượng Trị.

Cao Thăng Thái lên thay họ Đoàn được 2 năm, phân phong cho em và các con nắm giữ 4 phủ quan trọng nhất của Đại Lý, là các vùng Côn Minh, Vĩnh Thắng, Đằng Xung, Thiện Cừ. Năm 1096, Cao Thăng Thái lâm bệnh nặng. Có lẽ do áp lực từ các dòng tộc và Man bộ Vân Nam, biết khó duy trì ngôi vị nên lúc lâm chung, Cao Thăng Thái triệu quần thần và các con đến dặn dò: “Ngôi báu vốn của họ Đoàn, ta vì nhân tâm hướng về nên bất đắc dĩ phải nhận. Sau khi ta qua đời phải trả lại vương vị cho họ Đoàn, còn họ Cao đời đời phò tá, không được trái lời ta”.
Bảy ngày sau, Cao Thăng Thái qua đời. Con trai ông là Cao Thái Minh tuân theo di ngôn, trao trả vương quyền lại cho họ Đoàn. Người được chọn làm vua Đại Lý là Đoàn Chính Thuần, em trai Đoàn Chính Minh. Tuy vậy, họ Cao vẫn đời đời giữ quyền hành điều khiển Đại Lý, dân gọi là Cao Quốc chủ.
Con người thật của Đoàn Chính Thuần
Đoàn Chính Thuần tức Văn An hoàng đế của hậu Đại Lý. Theo “Thiên Long bát bộ”, Đoàn Chính Thuần là Trấn Nam Vương, nổi tiếng đào hoa, “gương mặt hình chữ quốc, khoảng chừng ngoài 40, tướng mạo uy vũ, tiêu sái”. Đoàn Chính Thuần được Kim Dung mô tả là con người đa tình, yêu mỹ nhân hơn giang sơn, có quan hệ đặc biệt với 5 mỹ nữ...
Đây là nhận xét của Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà trong “Thiên Long bát bộ”: “Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Ðại Lý là Ðoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kỹ Nhất Dương chỉ. Ông ta là một tay phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ nơi gác tía lầu son hay thiếu phụ nạ dòng trong võ lâm, một khi đã thấy mặt y là thần hồn điên đảo, không sao ngăn được mối tình bồng bột”.
Tương truyền, mẹ của Đoàn Chính Thuần nằm mơ thấy bạch hạc bay vào bụng mà có thai. Chính Thuần vốn chuyên cần học hành, võ nghệ hơn người. Trụ trì Vô Vi Tự là Diệu Trạm đại sư thấy Chính Thuần thông tuệ nên nhận làm đồ đệ, dạy võ công, lại truyền cho Chỉ Quán đại pháp. Năm 17 tuổi, trong cuộc thi sát hạch văn võ trong hoàng gia, Đoàn Chính Thuần văn đứng hạng nhất còn võ đứng hạng ba. Ra làm công việc triều chính thì Chính Thuần tính cẩn thận.
Em gái của Thăng Thái là Cao Thăng Khiết, tài nữ của Đại Lý, được Bản Tuệ pháp sư dạy cho bí thuật kỳ môn độn giáp có thể tiên tri, được gả cho Chính Thuần. Vợ chồng hay cùng nhau tranh biện, Chính Thuần luôn bị thua nên có bài tự trào: “Nước có bậc cân quắc, nhà có vợ mỹ miều. Chồng chẳng bằng vợ cũng là việc tốt. Vợ bảo đi Đông chớ nên đi Tây, đi về Đông thì lời lẽ ngọt ngào, đi về Tây thì thi văn đấu võ. Chồng vốn bất tài, khó tranh cao thấp với vợ”.
Đoàn Chính Thuần từng làm đến tả tướng quốc dưới thời Đoàn Chính Minh, được Cao Thăng Thái khen là “nhân hậu, tinh thông quốc sách”. Sau khi lên ngôi, ông phong cho Cao Thái Minh làm tướng quốc, chia đất ở Sở Hùng đến 500 dặm. Từ đó về sau, họ Cao các đời nối nhau làm tể tướng như Cao Minh Thuận, Cao Thuận Trinh, Cao Lượng Thành, Cao Thọ Xương, Cao Thái Tường. Thời bấy giờ, Đại Lý giao hảo với nhà Tống, Đoàn Chính Thuần cử Cao Thái Liên đi sứ, tiến cống roi vàng giản ngọc, ngựa tốt gậy vàng; Tống Huy Tông ban cho kinh sách bách gia chư tử, sách y thuật, cho 4 đại học sĩ vào Đại Lý giảng dạy.
Mùa đông năm 1108, sao chổi xuất hiện ở phía Tây. Mùa xuân năm sau, sao chổi dài đến 6 trượng quét qua phía Đông Nam, đến tháng 3 thì sao băng rơi như mưa. Dịch bệnh nổi lên ở Vĩnh Xương, Thiện Xiển, người chết đến ba phần, chó sói kéo về khắp nơi, ăn thịt người vô số. Năm ấy, nước lũ ngập tràn, mùa màng thất bát, Đại Lý phải mở kho cứu chẩn. Đoàn Chính Thuần lo lắng mới hứa nguyện xuất gia, nhường ngôi cho con là Đoàn Dự. Chính Thuần xuất gia pháp danh là Tu Không, trở thành trụ trì đời thứ 21 của Vô Vi Tự, sau vào núi Kê Túc lập Long Đàm Tự, hơn 40 người đi theo cũng đều làm tăng.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 30-5
Kỳ tới: Đoàn Dự, nhà ngoại giao xuất sắc
Trồng cây kỷ niệm việc... mất ngôi
Hiện nay, tại chùa Long Tuyền, đầm Hắc Long, TP Côn Minh, ngoài “Đường mai”(2 cây mai đời Đường) còn lưu 2 cây bách đời Tống gọi là “Tống bá”. Một cây trước điện Tổ Sư do Bảo Định đế Đoàn Chính Minh trồng năm 1096. Khi ấy, ông đi ngao du về được biết em trai là Đoàn Chính Thuần lên làm vua Đại Lý bèn trồng cây để làm kỷ niệm.
Bình luận (0)