Ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 2-3-1946, Quốc hội họp kỳ họp thứ nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo của Chính phủ lâm thời trước Quốc hội. Quốc hội đã bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ và giao cho Chủ tịch thành lập Chính phủ mới. Chính phủ theo Hiến pháp 1946, là cơ quan hành chính cao nhất của quốc gia, Hiến pháp quy định mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ như một cơ chế phối hợp và kiểm soát. Hiến pháp bảo đảm một nền hành pháp mạnh, phân nhiệm cao cho hành pháp.
Tư tưởng chỉ đạo cải cách bộ máy Chính phủ
Xét về mặt thể chế, trước khi có Hiến pháp, Người quan niệm một xã hội không thể sống một ngày không có pháp luật, cho nên Người đã ký sắc lệnh giữ lại mọi luật lệ của chế độ cũ, chỉ trừ những điều luật trái với nền độc lập, tự do. Đồng thời, Người ký một loạt sắc lệnh cấp bách: Sắc lệnh bảo đảm tự do cá nhân, Sắc lệnh bãi bỏ thuế thân, Sắc lệnh tổ chức tòa án độc lập với hành chính... Đó là nền tảng trước mắt và lâu dài cho một Nhà nước pháp quyền.
Về bộ máy Chính phủ xét về mặt hình thức có thể nhận thấy mô hình Chính phủ 10 bộ rất gần với Chính phủ của các quốc gia phát triển ngày nay. Trong tư tưởng chỉ đạo cải cách bộ máy Chính phủ chúng ta đang hướng tới giảm bộ, giảm cơ quan thuộc Chính phủ, tổ chức bộ liên ngành đa lĩnh vực. Trước kia trong nền kinh tế kế hoạch tập trung, hễ có ngành sản xuất nào thì có bộ đó. Thí dụ: Bộ Cơ khí Luyện kim, Bộ Điện than, Bộ Mỏ Địa chất... Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tách quản lý hành chính Nhà nước ra khỏi hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi phải tổ chức bộ liên ngành đa lĩnh vực. Thí dụ, ta đã nhập 3 Bộ Thủy lợi, Lâm nghiệp, Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Tổng cục Cao su Việt Nam thành Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn. Nhập Bộ Điện than, Cơ khí luyện kim, Công nghiệp nặng, Công nghiệp nhẹ, Tổng cục Hóa chất thành Bộ Công nghiệp. Hiện nay các bộ này hoạt động bình thường, có hiệu quả.
Trên thế giới ngày nay chúng ta thấy nhiều chính phủ của các nước phát triển tổ chức không quá 15 bộ.
Một sự chậm trễ cần phải suy ngẫm
Đối với chính quyền địa phương do Chính phủ quản lý, ngay từ những ngày đầu mới giành được độc lập, dù bận trăm công nghìn việc, lo chống “giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”, Hồ Chủ tịch nhanh chóng ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22-11-1945 về “Tổ chức chính quyền nhân dân ở các địa phương” và ngay sau đó ngày 21-12-1945 lại ban hành tiếp Sắc lệnh số 77 về “Tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã và thành phố”. Rõ ràng là dù Chính phủ lâm thời còn rất non trẻ, nhưng dưới sự lãnh đạo và điều hành trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã phân biệt rõ sự khác nhau của việc tổ chức quản lý địa bàn nông thôn so với địa bàn đô thị. Ở địa bàn nông thôn, do xác định cấp huyện là cấp trung gian giữa tỉnh và xã cho nên không thiết kế HĐND huyện, chỉ có ủy ban hành chính huyện.
Thực trạng quản lý đô thị ngày nay còn những bất cập, lộn xộn có lẽ vì thiết kế bộ máy quản lý đô thị không khác gì bộ máy quản lý nông thôn.
Đối với đội ngũ công chức trong bộ máy Chính phủ của cụ Hồ, có rất nhiều nhân sĩ nổi tiếng, nhưng ở ngoài Đảng. Như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước; cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng Ban Thường trực Quốc hội; các ông Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, bộ trưởng; rồi đến các ông Vũ Đình Huỳnh, Phạm Khắc Hòe, Phan Kế Toại... Các nhân sĩ này là những người trước hết là yêu nước, liêm chính được đào tạo và điều hành bộ máy hành chính có nhiều kinh nghiệm.
Nhận thấy con người trong bộ máy chính quyền các cấp giữ vai trò quyết định hữu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền, ngay từ những năm kháng chiến gian khổ ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh 76 ngày
20-5-1950 Quy chế công chức Việt Nam. Quy chế công chức ra đời đã bước đầu luật hóa hoạt động của công chức, không chỉ bằng kêu gọi, giáo dục về chính trị tư tưởng mà đòi hỏi trong một Nhà nước pháp quyền mọi hoạt động của công chức phải trong khuôn khổ pháp luật. Công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Ngay việc tuyển chọn bổ nhiệm công chức vào ngạch từ 1950 theo quy chế đã tổ chức hình thức thi tuyển. Một điều đáng nói là sau gần 50 năm (1998) chúng ta mới ban hành Pháp lệnh Cán bộ công chức và phục hồi việc thi để tuyển công chức. Thật là một sự chậm trễ cần phải suy ngẫm và rút kinh nghiệm.
Bình luận (0)