Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP E-paper

Bạn ơi, lẳng lặng mà nghe con... bài chường

VU GIA

Sau giờ giao thừa, bà con quê tôi không có lệ đi hái lộc. Phần lớn những người lớn tuổi, dặn dò hướng xuất hành, và đi xông nhà (đạp đất) nhà bà con, bạn bè khi ngày mới bắt đầu, rồi ai thức thì thức, ngủ thì ngủ, chuẩn bị đón một năm mới vui vẻ, hạnh phúc.

Hướng xuất hành thường được bà con hỏi những người có chữ nghĩa xem được lịch để biết năm đó, tuổi nào hợp hướng nào và nên xuất hành vào giờ nào. Người ta tin rằng, đầu năm đi đúng hướng, đúng giờ thì cả năm sẽ gặp nhiều sự may mắn. Trước đó, nhiều nhà cũng đã chọn những người hợp tuổi đạp đất nhà mình. Nếu không coi được giờ được tuổi, nhiều người cứ nhắm trong bà con, bạn bè ai ngày thường vui vẻ, tốt nết, “nhẹ vía” thì nhờ người đó đạp đất nhà mình. Cũng có người, nhân lúc giao thừa đi thắp hương nhà thờ tộc, đình làng... rồi về xông đất nhà mình, khỏi phải nhờ cậy ai. Nhưng những người một nắng hai sương như người d6n quê tôi thì sống đời thực tế, không quan tâm mấy đến tục này, tuy vẫn nghe kháo nhau ngày tốt, ngày xấu đầu năm.

Cũng không quan tâm lắm, nên sau giây phút quây quần bên mâm lễ cúng giao thừa, tôi đến thắp nhang nhà thờ họ, rồi dạo dọc triền sông Vu Gia. Trời tối, lòng sông thì sâu, nhưng mùi cây cỏ đôi bờ cùng tiếng muôn trùng gọi bạn trong đêm, làm cho tâm hồn tôi thanh thản lạ thường. Quê tôi bây giờ không còn đường đất, chỉ có lối mòn dọc ở triền sông. Đêm vắng, tuổi thơ của tôi hiện về với những trò chơi trẻ nhỏ, những trưa tắm sông, những tối gọi đò. Năm 1995, cây cầu Quảng Huế bắt ngang qua hạ lưu sông Vu Gia đã góp phần đáng kể trong việc giúp người dân quê tôi đổi đời. Một đêm mưa gió đi qua cây cầu này, tôi đã bật nên ý thơ:

Ta lóng ngóng gọi đò nghe gió vọng

Ánh đèn đêm run rẩy đuốc ma Hời

Gọi khản giọng, nhưng nhà đò báo nước chảy quá, thì đành quay lại xóm tìm nơi trú thân, sáng mai mới được rở về nhà. Nhờ cây cầu này mà quê tôi khác xưa rất nhiều. Điện, đường, trường, trạm... đều đủ cả. Mùa mưa vẫn phóng xe ào ào, chứ không như thời tôi học trường làng, mẹ tôi phải thuê người cõng đi học, vì bùn lầy có nơi tôi lội ngập gối, rút chân không lên.

Nay trở lại sau nhiều năm phiêu bạt

Chuyện ngày xưa mọi thứ đã xưa rồi

Đêm thức giấc

Giật mình lên tiếng gọi

Đò ơi, đò

Bến cũ đã rêu phong...

*

* *

Sáng mồng một, nắng xuân trải nhẹ trên ngàn cây lộc biếc. Sóng lúa cứ như xô dạt vào xóm làng. Râm ran đây đó những lời chúc tụng đầu năm. Vẫn như xưa. Nhà nhà từ ngõ vào đến sân đều có hai hàng hoa vạn thọ. Thứ hoa này dễ trồng lại lâu tàn, không phá đất, nên người dân quê tôi rất chuộng. Cứ những ngày này để ý thấy loại hoa vạn thọ nào đẹp thì chờ kho hoa khô, xin một hoa về gói trong tờ giấy báo để nơi khô ráo. Giữa tháng 11 âm lịch, thì đem ra vãi đại đâu đó trong vườn. Khi có cây con thì nhổ ra trồng dọc hai bên đường từ ngõ vào sân. Thế là năm mới nhà nhà rực rỡ sắc hoa. Ngồi bên chén trà với đĩa mứt gừng, tôi say sưa nhìn mấy cây cải giống trong sân nhà bác tôi đang nở hoa vàng dưới nắng xuân. Một vài chú bướm chập chờn tán tỉnh, làm duyên... Vẫn không khác xưa. Tuổi thơ của tôi đã sống như thế và bây giờ... cũng như thế, chỉ có tóc trên đầu mỗi ngày mỗi bạc, thân thể rả rời khi thời tiết chuyển mùa.

Quê tôi bây giờ nhiều nhà tầng, lắm nhà ngói, hàng hóa thứ gì ở phố thị có thì nơi đây cũng có, nhưng tấm lòng con người cứ vẫn như xưa. Ngày Tết cũng nhiều nhà có hạt dưa là do người ta biếu hoặc con cái làm ăn nơi xa mua về, nhưng hầu như không mấy người đụng tới, bởi... nó thua bắp rang. Ngày Tết ở quê tôi không có dưa hành, bánh chưng như một số tỉnh miền Bắc, nhưng nhà nào cũng có bánh tét. Ngoài bánh tét còn có bánh tổ, bánh in, bánh khô khổ, bánh lăn... Họ làm nhiều như vậy là để chứng minh với mọi người mình không phải đói kém, con cháu ăn cho đa thèm, nhất là ra giêng còn có cái để ăn nửa buổi, nửa chiều khi làm đồng. Ngày Tết, bước vào nhà nào, sau khi thắp nhang ông bà, nói những lời chúc tụng, thì vợ con chủ nhà liền bưng lên một mâm bánh tét, thịt heo, rau sống, bánh tráng nhúng (Bánh tráng đã được nhúng nước cho mềm ra để cuốn với rau sống, thịt heo). Loại đồ ngọt kể trên là ăn để uống nước trà (nhiều nhà vẫn nấu chè khô, uống bằng tô lớn) cho vui, chứ bánh tét, thịt heo, bánh tráng, rau sống mới là chính. Ít nhiều gì cũng ăn một miếng bánh tét, cuốn một cuốn bánh tráng thịt heo, như vậy mới là thật lòng, chủ nhà mới vui, còn ngược lại dù không nói ra miệng nhưng họ cho mình làm phách, khinh họ nghèo. “Nhịn miệng tiếp khách đường xa/ Cũng như của gởi chồng ta đi đường”. Lời nói ấy được những bà mẹ dạy cho con, nhất là con gái từ khi biết nấu cơm, gánh nước. Do vậy, từ xưa đến nay, người dân quê tôi rất hiếu khách. Nhà nào quanh năm suốt tháng không có khách viếng nhà thì phải coi lại mình ăn ở ra sao mà không ai thèm đến. Nhà nào giao thiệp rộng quá, thì chòm xóm cũng thương tình giúp đỡ khi con gà, khi con cá, con lươn (đặt ống trúm hoặc cắm câu)... phụ với gia đình tiếp khách. Nói chung, cái tình của người dân quê tôi vẫn đong đầy như thuở thiếu thời tôi đã biết.

Khoảng 8 giờ sáng mồng một, trống ở các đình làng giục liên hồi. Bác ôi cho biết mấy năm gần đây quê tôi đã phục hồi tục Hô bài chòi vào mấy ngày xuân. Giờ này, người ta ngại đến nhà người khác vì sợ mình là người xông đất đầu năm. Trong năm đó, họ làm ăn hanh thông chẳng nói làm gì, nếu rủi thời có chuyện chẳng hay thì mình áy náy. Do vậy tới hội bài chòi, trước là mua, sau gặp anh em, chòm xóm cùng rủ nhau về nhà sau hội bài chòi là yên tâm nhất, vui vẻ nhất. Hô bài chòi là hình thức diễn xướng gắn với trò chơi bài chòi – một loại hình vừa vui chơi, vừa thưởng thức văn nghệ phổ biến ở Trung trung bộ, kể cả Nam bộ. Ở qu6 tôi cũng như nhiều địa phương khác ở Quảng Nam, bài chòi là trò chơi rôm rả vào dịp tết, có nơi kéo dài cả tháng, vì... “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Bài chòi là một trò chơi giản dị và lành mạnh. Mặc dù có ăn thua, nhưng không ai coi đây là dịp để ăn tiền người khác. Một vạt đất thổ thuận tiện, có bóng cây, thoáng gió là đủ thành sân chơi lý tưởng rồi, hoặc ở một ngã ba đường, sân chợ, sân đình... Nói chung, chỗ nào rộng đủ để dựng mươi cái chòi con không ảnh hưởng đến sự đi lại làm ăn của nhân dân là được.

Lề luật chơi bài chòi ở quê tôi về cơ bản cũng giống như ở một số địa phương khác trong vùng. Cụ thể, cỗ bài để chơi gồm 60 quân (con bài) của bộ bài tới. Bộ bài tới được chia làm ba pho, mỗi pho có chín cặp và ba cặp yêu.

1. Pho văn gồm chín cặp: Chín gối, Bánh hai, Bánh ba, Dái voi, Năm rún, Sáu tiền, Bảy tiền, Bảy liễu, Tám miểng, Chín cu.

2. Pho vạn gồm chín cặp: Học trò, Nhì móc, Tam quăng, Tứ cẳng, Ngũ trưa, Lục trạng, Thất vung, Bát bồng, Cửu chùa.

3. Pho sách gồm chín cặp: Nọc thược, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ gióng, Năm dày, Sáu nút, Bảy sưa, Tám giây, Đỏ mỏ.

Ba cặp yêu: Ông ầm, Thái tử, Bạch huê.

Bài tới là một lối chơi bài phổ biến và bình dân nhất ở quê tôi, cũng như nhiều địa phương khác ở Quảng Nam. Trong ngày Tết hay những lúc rảnh rỗi, người ta bày sòng bài tới lên bộ ngựa, hoặc chiếc chõng tre để chơi. Trò chơi này nặng phần giải trí, song nhiều khi lại trở thành trò chơi đỏ đen tiêu cực, khiến trong dân gian có bài vè phê phán:

Nghe vẻ nghe ve,

Nghe vè bài tới.

Cơm chưa kịp tới,

Trầu chửa kịp têm.

Tau đánh một đêm,

Thua ba tiền rưỡi.

Về nhà chồng chửi,

“Nhì móc”, “Tam quăng”.

Đánh sao không ăn,

Mà thua lắm bấy.

Tau lấy tiền cấy,

Cho đủ mười ngày.

“Năm dày”, “Bảy sưa”,

Cũng là nhịp kéo.

Chị em khéo léo,

Dễ mượn, dễ vay.

Thân tui ngày rày,

Dầm sương dãi nắng.

Chị em có mắng,

Tui cũng ngồi đây.

Nó là “Tám giây”,

Nó cũng a dua.

Ăn thì tui dùa,

Thua thì tui chịu.

Cái hay của trò chơi bài tới là ở tính chất thân hữu, tạo nên không khí đầm ấm trong gia đình, chòm xóm. Mặt khác, cách thức chơi cũng đơn giản, dễ học, dễ bắt chước, không đòi hỏi phải rành rọt lề luật phức tạp như các loại bài khác và tính sát phạt cũng không cao. Số tay chơi cũng linh động, bốn người hoặc sáu người cũng đều chơi được. Chia bài xong, người chọn đi bài, trước tiên rút một con bài bỏ ra, nhưng theo lệ thì cấm dùng các con bài có dấu triện đỏ (Ông ầm, Thái tử, Đỏ mỏ). Những tay bài khác, nếu có con bài giống con bài vừa đánh ra (gọi là bài chợ) thì rút con ấy ra bắt và đi một con bài khác. Các tay bài khác lại tiếp tục như vậy cho đến khi có một tay bài tới là hết một ván bài. Tới bài tức là khi trên tay chỉ còn hai lá bài và lúc đó, người đi bài đã đi đúng tên một trong hai con bài mà mình đang chờ thì gọi là tới. Luật chơi bài tới có quy định là không được chực con bài có dấu triện đỏ. Do vậy, khi thấy ai đó đánh con bài có dấu triện đỏ là các tay bài khác biết tay bài đó đang chờ tới mà tìm cách tránh.

Người tới được lấy phần tiền của mình vừa mới đậu chung. Người đi bài đầu tiên tới là khi người người ấy chỉ còn có một con bài để chực và họ được lấy hai phần tiền.

Khác với bài tới, bài chòi được tổ chức ở ngoài trời, như sân đình hoặc một nơi thoáng rộng. Người ta dựng mươi cái chòi bằng tre giống như các chòi giữ bắp, giữ dưa và chia làm hai dãy. Ở giữa là chòi của “anh hiệu” – người có tài hô bài chòi từ những bài văn vần lục bát theo điệu hô thai độc xướng. Những bài văn này có khi là truyền khẩu, song cũng có khi người hô ứng tác. Ngoài ra, một ban tổ chức chơi bài chòi gồm ba người chạy hiệu thu cờ, bán cờ, phát cờ; một thủ quỹ và một ban nhạc gồm nhiều nhạc cụ: trống cơm, trống cái, đờn cò, trống chầu... Trống chầu có chức năng cổ động hữu hiệu và còn dùng để thưởng chầu, tức gióng chầu liên tục để mừng người trúng quân bài.

Tất cả công việc chuẩn bị cho cuộc chơi bài chòi thường phải hoàn tất vào chiều cuối năm. Tối hôm đó, khi việc cúng rước ông bà đã hoàn tất, thì một số nơi có lệ mở hội đánh bài chòi. Đây là nghi lễ có tính chất tượng trưng, người ta chỉ đánh vài ván để lấy lệ, lấy ngày. Phải chăng, đây là buổi diễn phúc khảo nhằm có sơ sót gì thì còn tìm cách khắc phục để sáng ngày sang năm mới mọi thứ đều trót lọt tốt đẹp ?

Theo kể lại, trước khi chơi bài chòi khai hội, hương chức làm lễ cúng thổ địa, thần linh và cầu khẩn điều tốt việc lành cho xóm dân trong năm mới. Hôm sau, cuộc chơi bài chòi được khai mạc từ sáng sớm. Tiếng trống vang lên báo hiệu và thôi thúc dân làng đến chơi bài chòi. Khi dân làng đến đông, thì cũng là lúc các tay chơi bài chòi lần lượt chiếm các chòi và sau đó, những người chạy hiệu mang bài và “cờ ngân” trên chiếc khay đến tận chòi để bán. “Cờ ngân” trị giá cho số tiền góp của mỗi chòi cho một ván bài. Nếu có chín chòi thì có tám “cờ ngân”, chiếc “cờ ngân” còn lại được dành cho ban tổ chức cuộc chơi, coi như một thứ tiền xâu. “Cờ ngân” thường dùng màu đỏ. Ngoài “cờ ngân” còn có một số “cờ bài” đuôi nheo ngũ sắc đi theo bài con.

Bán xong, anh hiệu cất tiếng hô một bài lục bát, hoặc song thất lục bát để “giáo đầu trò” và cất giọng hô con bài đầu tiên của buổi chơi mà anh rút được từ ống tre hoặc cột, hoặc đóng đinh vào cây cột phía sau lưng, cao hơn đầu anh ta một chút.

- Hiu hiu gió thổi ngọn tre,

Chín chòi lẳng lặng mà nghe con... bài chường.

Sau con “bài chường” là những con bài kế tiếp khác. Ở các chòi, mỗi khi bài tới đã tới đến con thứ ba, thì gõ mõ lên ba tiếng, hoặc trống đánh lên ba tiếng, có chòi lại ré lên “tới ! tới !”. Nghe tiếng ấy, người chạy hiệu liền đem một cây cờ đuôi nheo cùng số tiền mà họ được thưởng chạy đến giao cho người chơi. Chòi “tới” lãnh cờ, cắm lên mái chòi cho mọi người chiêm ngưỡng “vận hên đầu năm” của mình. Chòi nào tới đủ ba con bài, tức lãnh được ba cờ đuôi nheo trước là chòi đó tới, tức là ăn ván đó. Chòi tới được ban tổ chức cuộc chơi trao cho một cờ lớn, và tiếng trống gióng lên để “báo tin mừng”. Ngày xưa, có chòi còn bỏ tiền mua pháo đốt để tỏ rõ sự hào hứng và cũng để mọi người có mặt cùng chung niềm vui năm mới. Nay Chính phủ cấm đốt pháo, thì trống được đánh lên ầm vang, tạo nên không khí ngày hội khá vui.

Cái thú vị của trò chơi bài chòi không phải là việc ăn thua mà là được hội nhập vào một sinh hoạt văn nghệ. Anh hiệu là diễn viên chính. Anh hô những bài lục bát trên nền nhạc của giàn nhạc tấu. Các câu lục bát anh hô lên có thể là những câu cũ đã quen tai từ những lần chơi trước ở đâu đó và cũng có những câu mới mẻ đầy thú vị, hay những câu rất dí dỏm. Ví dụ:

- Một, anh để em ra,

Hai, anh để em ra.

Về em buôn, em bán,

Trả nợ bánh tráng, trả nợ bánh xèo.

Còn dư trả nợ thịt heo,

Anh đừng lầm em nữa, kẻo mang nghèo vì em.

Nhì nghèo là huớ Nhì nghèo !

- Chiều chiều con quạ lợp nhà,

Con cu chẻ lạt, con gà đưa tranh.

Ai làm cho em bén duyên anh,

Cho mây lấy núi, cho trăng thanh lấy gió ngàn.

Ba gà là huớ Ba gà !

- Một hai bậu nói rằng không,

Dấu chân ai đứng bờ sông hai người.

Tử cẳng huớ Tứ cẳng !

- Chú giỏi sao chú hổng đi thi,

Cứ ăn xó bếp, lại ngủ khì chuồng trâu.

Chú ơi, tui chẳng ưng đâu,

Trạng không xứng trạng, có hầu cũng uổng công.

Lục trạng huớ Lục trạng !

vân vân và vân vân...

Không khí ngày Tết ở quê tôi là vậy, hẹn bạn ngày mồng hai Tết.

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo