Tôi đã kể khán hiều về Thượng Tướng Giáp Văn Cương. Trong cuốn Trường Sa, tập sách vừa ra trong những ngày cuối cùng của năm 2014, tôi cũng đã kể về Tướng Cương. Đó là những chuyện mà tôi được trực tiếp chứng kiến. Và trong những ngày vui Tết này, tôi lại muốn nói thêm về ông.
Tôi rất mừng khi ai đó đề xuất rằng ở TP HCM nên có một con đường mang tên Giáp Văn Cương. Đấy là một gợi ý, một sáng kiến hay. Chúng ta cũng cần lưu giữ chút gì về ông cho hậu thế. Bởi đến nay, không phải ai cũng biết về ông. Vẫn có người còn nhầm Thượng tướng Giáp Văn Cương với Trung tá Giáp Văn Khương - người lính đánh Pháp đã dũng cảm nhảy từ núi Non Nước xuống sông Vân ở tỉnh Ninh Bình. Đó là 2 vị anh hùng hoàn toàn khác nhau.
Thượng tướng Giáp Văn Cương. Ảnh: internet
Giáp Văn Cương là một vị tướng tài. Ông là tướng quân sự nhưng rất giỏi làm công tác chính trị và diễn thuyết cũng rất hay. Tôi đặc biệt thích nghe Tướng Cương trò chuyện với lính.
Hồi ấy, đất nước đã thống nhất nhưng nghĩa vụ quân sự vẫn như những năm chiến tranh. Có người ở Trường Sa cả chục năm liền, thiếu thốn, gian khổ lắm chứ không như bây giờ. Ở đảo hầu như không có khái niệm thời gian, chỉ biết mặt trời mọc là thêm một ngày, mặt trời lặn là đã qua một ngày. Nhưng ngày ấy là ngày nào? Chịu!
Đảo hồi ấy đã được đất liền chăm chút chu đáo. Hầu như tiểu đội nào cũng có lịch, mỗi người lính còn có thêm một cuốn lịch con trong túi nhưng chỉ quên xé hay đánh dấu là chịu rồi. Mở đài, thi thoảng bắt được làn sóng chập chờn, gặp buổi tường thuật bóng đá thì biết chắc là chiều chủ nhật. Nhưng một tháng có đến 4 chủ nhật, vậy chủ nhật nào? Chịu! Chính trị viên đành chọn một ngày để thống nhất toàn đảo. Ngày ấy lại biệt lập hoàn toàn với đất liền.
Tướng Cương bảo: “Tớ đâu có muốn đày đọa các cậu. Giá trị gì mấy cái hòn đá cằn cỗi này mà phải gìn giữ? Nhưng đây là Tổ quốc của mình, là máu thịt của mình. Có phải chúng ta giữ mấy hòn đá hoang dại này đâu mà là giữ biển đấy! Mất đảo là mất biển, mà biển lại bao bọc suốt từ Bắc đến Nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi từ đường biển vào. Thế nên chúng ta phải giữ đảo, giữ biển. Khổ mấy cũng phải giữ, có chết cũng phải giữ! Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh này”.
“Tớ già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra được ở nhà an thú tuổi già, vậy mà vẫn phải lọ mọ lặn lội sóng gió ra đây với chúng mày, vẫn phải làm tư lệnh. Tất nhiên tớ biết, các cậu vất vả hơn tư lệnh nhiều, khổ hơn tư lệnh nhiều vì tư lệnh còn được ở đất liền. Hay là các cậu vào đất liền, làm tư lệnh thay tớ, để tớ giữ đảo cho? Ở đây có cậu nào làm được tư lệnh không, xung phong nào! Cậu nào làm được tư lệnh, tớ sẽ báo cáo quân chủng, báo cáo Bộ Chính trị cho thay ngay Giáp Văn Cương”.
Ông tâm tình: “Còn việc về phép của các cậu, chúng tớ có tiếc gì đâu. Nhưng Bộ Tư lệnh nghèo quá, đất nước nghèo quá. Chúng ta vừa qua chiến tranh, còn hàng triệu bà mẹ liệt sĩ thiếu ăn, hàng triệu trẻ con không có trường học. Đưa một cậu về phép, Bộ Tư lệnh phải xuất 20 tấn dầu cả tàu ra, tàu về, rồi tàu lại ra. Mà dầu thì ta không có, phải mua của nước ngoài, rất đắt. Mỗi đứa bớt một lần về phép thì một trăm bà mẹ liệt sĩ có được đến mấy tháng ăn...”.
Thế rồi ông khóc. Lính cũng khóc: “Thôi, chúng con hiểu rồi. Bố đừng nói nữa, chúng con thương bố lắm”. Tướng Cương bảo: “Chẳng ai nỡ làm cái việc táng tận lương tâm là cắt phép của các cậu. Nhưng hôm nay tớ phải làm cái việc táng tận lương tâm ấy đấy. Cắt phép. Còn nếu cậu nào có thể tự túc về được thì tớ cho đi ngay, bất cứ lúc nào. Có ai bơi được về đất liền không? Không à? Trai trẻ gì mà kém thế! Tớ mà trẻ trai như các cậu là tớ trốn đấy”. Thế là tướng với lính cười bò. Cười mà nước mắt giàn giụa.
TƯỚNG CƯƠNG TÀI LẮM MÀ RẤT CHÂN THÀNH. Cánh lính thương ông cũng vì sự chân thành ấy. Tôi nhớ có lần ông đến tuần tra một hòn đảo. Đảo bé lắm, chỉ lờ phờ một doi cát đủ để dựng túp lều bạt. “Ở đây thì mọi thứ đều thiếu thốn rồi - giọng Tư lệnh xót xa - Nhưng cái gì cần nhất, cấp thiết nhất, các cậu cứ nói thẳng với mình. Bộ Tư lệnh sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ các cậu”. “Thế bố cho con được nói thật nhé”. “Ừ, thì phải nói thật chứ - Tư lệnh mỉm cười. - Chả lẽ tớ già thế này còn lặn lội vượt sóng gió ra đây để rồi rốt cuộc lại nghe các cậu nói dối à?”. “Nhưng bố không được phê phán con lãng mạn cơ...”. “Cái thằng! Tao còn lãng mạn hơn mày ấy!”.
Anh lính trẻ nhìn mái đầu bạc trắng của Tư lệnh, cười hồn nhiên: “Thế thì, con đề nghị bố thế này. Bận sau, nếu ra đảo, bố chịu khó giắt lưng cho chúng con vài cô gái”. “Chúng mày muốn nghe hát hả? Muốn xem văn công hả?”. “Không, không! Con đâu dám có voi đòi tiên! Văn công xa vời quá, chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi! Các cô ấy chỉ mặc tấm áo phin trắng, đi phơ phất trên đảo, để chúng con ngắm, chúng con “chỉnh” mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy đấy, sang vành hết cả rồi!”. Tư lệnh cười ha hả. Anh lính trẻ cũng cười.
Chưa bao giờ tôi được nghe cuộc đối thoại kỳ lạ như thế. Sau đó, quả như niềm ao ước của anh lính trẻ, các cô gái lần lượt ra thăm đảo. Không phải cánh nuôi quân mà là các cô văn công mặt hoa da phấn hẳn hoi. Cô nào cũng đẹp, cũng thơm phức và lộng lẫy như những nàng tiên cá. Các cô múa hát và khâu vá cho chiến sĩ. Nhiều anh áo quần còn mới nguyên cũng bí mật xé ra rồi nhờ các cô vá. Thế là từ đấy, lần nào Tư lệnh ra đảo, các chiến sĩ cũng được dự những “bữa tiệc mắt” linh đình.
NHƯNG ĐÓ LÀ CHUYỆN SAU NÀY, CÒN CHIỀU ẤY, ngồi bên Tướng Cương trên mặt cát nóng bỏng như rang, dù mặt trời đã lặn xuống biển lâu rồi, anh lính trẻ quê xứ Nghệ thực sự coi Tư lệnh như một người đồng đội thân thiết. Anh lắc lắc đầu gối Tư lệnh: “Bố thấy vương quốc của chúng con thế nào?”. Tư lệnh đưa mắt nhìn suốt rẻo cát trống trơn, rồi lại nhìn cái lều bạt dã chiến cứ hộc lên trong gió tựa hồ một con ngựa bất kham đang lồng lộn như muốn rứt tung mấy sợi xích sắt căng ghì xuống đảo. “Đẹp, nền nếp. Đúng quân phong, quân kỷ. Ở đây mà giữ được như thế này là tốt lắm rồi” - giọng ông bỗng bùi ngùi.
“Bố đừng lo, chúng con ở đây quen rồi. Khổ mấy chúng con cũng chịu được! Nhưng đúng như bố nói đấy, rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá, con liều nghĩ hay là ta cứ tạm giấu quách đảo đi!”. Tư lệnh ngạc nhiên: “Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào?”. “Thì bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ 3 giờ là con giấu xong đảo thôi! Mà không đến 3 giờ đâu, chỉ 1 giờ rưỡi là con xúc xong chỗ cát này cho xuống biển, đố kẻ nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu!”.
Tư lệnh cười vang, cười đến giàn giụa nước mắt. Rồi ông lóp nhóp đánh xuồng về tàu. Thật bất ngờ, lát sau, ông trở lại với chiếc xẻng còn mới coóng. “Đây, xẻng đây! Không phải mượn đâu, tớ tặng luôn đấy, để cậu giấu đảo!”. Cứ tưởng người lính trẻ sẽ lắc đầu quầy quậy, nào ngờ anh vồ vập đón chiếc xẻng từ tay Tư lệnh.
Sáng sớm hôm sau, Tư lệnh đánh xuồng trở lại đảo thì thấy anh chàng đang cởi trần, hì hụp lặn ngụp cùng với chiếc xẻng. Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển mà lấy cán xẻng khẽ bẩy từng tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân đảo, giữ cho cát khỏi bay. “Mày làm cái gì thế? Giấu đảo thế à?” - Tư lệnh ngạc nhiên. “Dạ, báo cáo bố, con mở mang bờ cõi ạ!” - anh lính cười khục khục, gương mặt nhấp nhóa nước - “Mà đúng ra, chúng con chỉ “buông neo” cho Tổ quốc khỏi bị “trôi dạt” thôi”.
Tổ quốc sẽ không bao giờ bị trôi dạt bởi chúng ta đã có những vị tướng như thế, những người lính như thế. Bây giờ, Trường Sa đã khác. Cây lá xanh rì với không gian trong lành như công viên sinh thái. Thấp thoáng sau những bóng cây là mái chùa quen thuộc. Tôi ước ở đây sẽ có những đoạn đường dù chỉ dài vài trăm mét mang tên Giáp Văn Cương. Rồi đường phố mới mở ở các tỉnh, thành trong dải đất liền hình chữ S mang tên những người lính vô danh của Tướng Cương - những người đã quấn cờ Tổ quốc lên thân mình, rồi lấy ngực chắn các luồng đạn ở đảo Gạc Ma; những người đang ngày đêm canh giữ biển đảo, che chở cho đất liền và neo giữ để Tổ quốc không bao giờ bị trôi dạt trước sóng gió cuồng phong...
Bình luận (0)