Đối với bác sĩ Phạm Văn Huyến, nhà báo Phi Bằng (Cao Minh Chiếm) và Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, ba nhà lãnh đạo phong trào Hòa bình và Tự quyết, chính quyền Sài Gòn theo lệnh Hoa Kỳ bày một trò “cân não” để dằn mặt trí thức sinh viên miền Nam lúc ấy. Ba ông Phạm Văn Huyến, Phi Bằng (Cao Minh Chiếm) và Tôn Thất Dương Kỵ là người miền Bắc và miền Trung nên chính phủ Sài Gòn giao cho chính quyền Vùng I chiến thuật - dưới trướng của tướng Nguyễn Chánh Thi, ở gần sông Bến Hải, giải quyết. Trong ba người ấy, GS Tôn Thất Dương Kỵ là một trí thức yêu nước tiêu biểu của Huế trong nhiều thập kỷ trước đó. Chính quyền Sài Gòn nghĩ rằng “Trừng trị, khuất phục được Tôn Thất Dương Kỵ thì bọn trí thức sinh viên học sinh Huế sẽ chùn bước đấu tranh”. Nhưng họ đã nhầm.
Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), người Hoàng tộc hậu duệ của Từ Sơn, hoàng tử út của vua Gia Long), ngụ tại làng Vân Dương, xã Thủy Vân huyện Hương Thủy - Thừa Thiên - Huế. Ngoài kiến thức Tây học, ông còn hiểu biết về Nho học khá rộng. Trước năm 1945, đã viết một số bài nghiên cứu về văn, sử, địa, đăng trên tạp chí Tri Tân và một số báo, tạp chí khác. Sau Cách mạng tháng 8-1945, ông làm thư ký Hội trí thức cứu quốc Thừa Thiên... Từ 1947 đến 1954, vừa dạy học ở trường Khải Định vừa hoạt động bí mật ở thành phố. Ông chủ trương tạp chí Tiến Hóa - cơ quan ngôn luận của trí thức tiến bộ, yêu nước miền Trung. Tờ Tiến Hóa bị đóng cửa, ông bị bắt giam: Năm 1955, ra tù, ông phải chuyển địa bàn vào Sài Gòn, dạy học ở các trường Marie Curie, Đại học Văn khoa v.v. Năm 1962, ông lại bị bắt, đến sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ (1-11-1963) mới được tự do.
Trò "cân não" của Nguyễn Chánh Thi đối với ba vị trí thức miền Nam được thực hiện trong không khí Thi chặn đứng được cuộc đảo chính do Đại tá Phạm Ngọc Thảo và tướng Lâm Văn Phát cầm đầu ở Sài Gòn (21-2-1965 ) và tướng Không quân Nguyễn Cao Kỳ vừa dẫn 24 phi cơ (14-3-1965) ném bom một căn cứ thủy quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở đảo Hòn Cọp (Cồn Cỏ) thuộc khu Vĩnh Linh phía bắc Quảng Trị. Tướng Thi chủ trương buộc ba nhà lãnh đạo phong trào Hòa bình và Tự quyết vào dù, rồi cho tàu bay chở họ ra thả xuống miền Bắc. Chủ trương thả dù có mục đích khủng bố tinh thần ba nhà trí thức của Thi đến tai ông Thủ tướng dân sự Phan Duy Quát. Ông Quát sợ dân chúng và thế giới lên án nên không đồng ý. Tướng Thi giải thích: "Phải làm như thế ba ông trí thức mới tởn và không dám đòi hòa bình, tự quyết nữa". Ông Quát không tin biện pháp ấy có thể khuất phục được ba nhà trí thức mà ông Quát biết rõ là họ "bất khuất” Thi lại nói: "Vậy thì cho họ ra miền Bắc mà bất khuất với Cộng sản. Nhiều người làm việc gần Thi cho biết thêm: Thi bảo rằng ba nhà trí thức miền Nam đã quen cuộc sống sung sướng ở đô thị, ra miền Bắc đang bị bắn phá cực khổ thế nào họ cũng xin ở lại"!
Vào sáng ngày 19-3-1965, Thi cho tổ chức một cuộc tụ tập dân chúng trí thức sinh viên học sinh Huế bên bờ Nam cầu Hiền Lương để xem chính quyền Vùng I Chiến thuật "đày" ba thành viên cao cấp của Phong trào Hòa bình và Tự quyết ra miền Bắc. Trong ý đồ của tướng Thi muốn cho giới "tai mắt" của Huế thấy ba ông trí thức sẽ cầu xin được xách cặp trở lại miền Nam và hứa sẽ không dám đòi "hoà bình" "tự quyết” nữa. Buổi lễ bắt đầu, tướng Thi đọc "tội trạng" gây trở ngại cho công cuộc chống Cộng của ba nhà trí thức và đó là lý do khiến chính quyền Vùng I đày họ ra miền Bắc. Thi vừa đọc xong, lính quân cảnh mở cửa sau một chiếc xe thùng bịt kín đẩy ba nhà trí thức đến đầu phía Nam cầu Hiền Lương. Dân chúng chăm chú nhìn theo. Người xuất hiện đầu tiên là Bác sĩ Phạm Văn Huyến rồi đến nhà báo Phi Bằng (Cao Minh Chiếm), GS Tôn Thất Dương Kỵ. Mặt mày ai trông cũng tỉnh táo không lộ vẻ sợ hãi gì cả. Ba người mang theo ba cái xắc đựng vài cặp quần áo với đồ dùng cá nhân nhẹ nhàng. Tướng Thi và quần chúng hồi hộp chờ đợi ba vị trí thức quay đầu và chắp tay lạy ông Thi để được ở lại “miền Nam tự do”.
Không ngờ ba ông trí thức không những không xin ở lại mà khi qua đến nửa phần cầu thuộc miền Bắc thì ngoái lại giơ tay chào đồng bào và hẹn sẽ gặp lại sau ngày giải phóng miền Nam. Đồng bào và SVHS có mặt hôm đó rất khâm phục tư cách của ba nhà trí thức. Họ muốn vỗ tay tán thưởng nhưng sợ chính quyền của tướng Thi làm khó dễ nên chỉ nhìn trao nhau một nụ cười kín đáo mà thôi. Đồng bào cười để mừng ba nhà trí thức được thong dong qua cầu Hiền Lương ra miền Bắc và cũng cười để đi cười cái trò "cân não" của ông tướng võ biền quá thiếu óc não. Ông tướng Thi thấy trò lố của mình đã thảm bại, rất tức ông ta chửi bới bọn bộ hạ tưng bừng rồi lái xé Zeep quay đầu hướng vào Đà Nẵng bỏ mặc chính quyền địa phương phải cuốn cờ hạ màn đưa vào Quảng Trị. Đây là một thất bại của một anh võ biền đương đầu với trí thức. Vì thế sau này viết hồi ký Việt Nam Một Trời Tâm Sự (Hoa Kỳ, 1987), ông Thi huênh hoang đủ chuyện ở miền Trung nhưng không dám đề cập đến bất cứ một chi tiết nào liên quan đến sự kiện “ba nhà trí thức được thong dong qua cầu Hiền Lương ra miền Bắc” hôm 19-3-1965.
Có lẽ sau 39 năm tướng Thi với “một trời tâm sự” ở đất khách quê người cũng đã biết GS Tôn Thất Dương Kỵ sau khi được "thong dong" qua cầu Hiền Lương ra miền Bắc một thời gian, ông xin về Nam, và được cử làm Tổng thư ký Liên minh Các Lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam (1968). Sau ngày giải phóng miền Nam; năm 1977. Ông lại được cử làm Ủy viên thư ký UBTƯMTTQVN. Mười năm sau (1987) ông mới qua đời. Còn bác sĩ Phạm Văn Huyến ra đi nhưng con gái ông là Luật sư Phạm Thị Thanh Vân (bà Ngô Bá Thành) ở lại hoạt động yêu nước cho đến ngày đất nước được thống nhất.
Đối với người Việt Nam dù trước đây ở bên này hay bên kia sông Bến Hải, tất cả những chuyện cũ thời kháng chiến đều đã trở thành kỷ niệm. Mà kỷ niệm thì có chuyện vui xen với chuyện buồn. Đối với lịch sử, những gì đã xảy ra thì không bao giờ biến mất. Câu chuyện về ba vị trí thức trong phong trào Hoà bình và Phong trào Tự quyết 1965 "thong dong" qua cầu Hiền Lương ra miền Bắc là một trong những sự kiện chưa biến mất ấy.
Bình luận (0)