Sau một lúc ngờ ngợ, tôi bạo gan hỏi “vua”: “Thưa, năm nay bác được bao nhiêu tuổi ạ? ”. “Vua” không trả lời, nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi ngược:
- Vậy chớ năm nay chú bao nhiêu tuổi?
- Thưa, cháu 38.
“Vua” chợt cười lớn: “Chú nhỏ hơn qua tới 39 tuổi mà sao đầu gần bạc trắng vậy?”. Câu chuyện giữa tôi và “ vua cá lóc” đã khởi đầu như vậy.
“Bẻ nạng chống trời”...
Nhưng chuyện đầu tiên mà “ vua cá lóc” muốn kể cho tôi nghe hoàn toàn không dính dáng gì đến nghề nuôi cá mà là những kỷ niệm mới rượi của ông khi được ra Hà Nội dự Hội nghị Nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi toàn quốc hồi tháng 9-2002. “Vua cá lóc” không giấu vẻ mãn nguyện khi được Chủ tịch nước Trần Đức Lương mời dự họp mặt và tặng quà, được Thủ tướng Phan Văn Khải tặng Bằng khen, được Bộ Thủy sản, Bộ NN và PTNT mời cơm... Tất cả những chuyện “trọng đại” đó đều được “vua cá lóc” xem là niềm tự hào không gì sánh được đối với một anh nông dân chân lấm tay bùn tận miệt bưng biền giữa ruột Đồng Tháp Mười.
“Nói chính xác thì qua vào sống bên bờ kinh Đồng Tiến này từ hồi năm 1961. Hồi đó vùng này nghèo mạt từ đường, khắp nơi chỉ là bưng phèn ngập tràn năng, lác, lau sậy và cỏ dại”, hớp một ngụm trà thấm giọng, mắt nhìn xa xăm ra phía dòng kinh còn cuồn cuộn nước lũ, “vua cá lóc” bồi hồi giở lại những hồi ức. “Đâu khoảng năm 1992, nhiều lúc kiếm con cá lóc đồng nấu canh chua đỏ con mắt mà không có, qua tức mình nằm đêm suy nghĩ: “Với đà thâm canh tăng vụ sản xuất lúa ngày càng mạnh, phân hóa học, thuốc trừ sâu đầy đồng thì con cá sẽ ngày càng khan hiếm. Vậy tại sao mình không... nuôi cá lóc?”.
Nghĩ sao làm vậy, tháng 4 âm lịch năm đó “vua cá lóc” lội đồng tìm vớt từng bầy ròng ròng (cá lóc non mới nở) về ương trong ao, đìa quanh nhà. Một lần nữa, những người hay chuyện lại râm ran: “Ông già bẻ nạng chống trời, cá lóc đầy đồng không ăn bày đặt nuôi với nấng” nhưng ông cứ lẳng lặng làm. Không biết con cá lóc non ăn gì để sống, ông ngày ngày nấu cháo trộn với cám rải xuống ao cho cá ăn. Nhưng cháo cứ nấu mà cá chết cứ chết, hết bầy này qua bầy khác. Suy nghĩ nát nước, mày mò đủ thứ thức ăn nhưng vẫn không thành công, cuối cùng ông đánh liều bắt ốc sống về bằm ra rải xuống ao. Tới lúc này thì con cá lóc non bắt đầu chịu ăn mồi và ông cũng nghiệm ra một lẽ thường tình: “Con cá tự nhiên phải ăn mồi có sẵn ngoài thiên nhiên để sinh tồn chứ đâu phải con heo mà ăn cháo với cám”. Vậy là năm sau ( 1993) ông sắm cối xay, bắt ốc, đặt nò, giăng lưới lấy cá tạp về xay nhuyễn để bắt đầu “chinh phục” nghề nuôi cá lóc. Năm đó, ông thả nuôi 17.000 con cá lóc trong 700 m2 mặt nước, sau gần 1 năm vét hầm thu được hơn 5 tấn cá lóc thương phẩm, lãi ròng 30 triệu đồng và 2 cái máy dầu.
“Con cá trời cho”
“Vua cá lóc” thừa nhận: “Cá lóc ngoài tự nhiên cứ tháng 4 âm lịch là sinh sôi, theo nước đi kiếm ăn khắp nơi, đến tháng chạp thì con nào con nấy bự xộn từ nửa ký trở lên. Vậy mà khi thả vô ao nuôi cho ăn đầy đủ cá bệnh vẫn bệnh, chết vẫn chết, người nuôi nhiều trận gần như muốn phá sản”. Nhưng trời không phụ lòng người, chính nhờ những con cá lóc giống lạ vô tình vớt được ngoài đồng mà “vua cá lóc” mới có được ngày hôm nay. Ông kể: “Đận đó vào mùa lũ lớn năm 1996, qua và một người bạn ra đồng tình cờ bắt gặp một bầy ròng ròng đông vô kể liền vớt về nuôi. Lúc đầu cứ nghĩ là con cá lóc đồng bình thường nhưng sau một thời gian thả nuôi thì phát hiện nhiều điều lạ: giống cá lóc này ham ăn kinh khủng, miệng rộng, ruột lớn và mùa gió trở chướng vẫn ăn bình thường chứ con cá lóc đồng hầu như rất ít ăn mồi khi trời có gió chướng”. Đặc tính tham ăn khiến bầy cá này lớn nhanh như thổi: Sau 8 tháng thả nuôi con nhỏ nhất đạt trọng lượng 2 kg, con lớn nhất nặng 3 - 4 kg. Đến lúc bắt lên thì phát hiện thêm một điều thú vị nữa: Con cá ham ăn này có cái môi dưới dài hơn môi trên một khúc dù mình mẩy, hình dạng chẳng khác gì con cá lóc đồng xưa nay thường ăn. Không ai gọi được tên giống cá này, bí quá mọi người gọi luôn là “con cá lóc môi trề”, chết danh cho tới ngày hôm nay. Dẫn tôi ra hầm cá trước nhà, “vua cá lóc” khoe: “Qua đang có 40 con cá nái, nuôi 2 năm rồi, để dành cho đẻ lấy cá con”. Khi chiếc mùng lưới mành mành chừng 2 m3 được kéo lên, tôi không khỏi kinh ngạc khi thấy bầy cá lóc khổng lồ đen trùi trũi quẫy nước văng tung tóe, mỗi con ước chừng 5 - 6 kg. “Vua cá lóc” giảng giải: “Nếu cho ăn thẳng thét, đầy đủ thì bây giờ mấy con cá này con nào cũng trên chục kg. Nhưng giống cá này lạ lắm, phải cho ăn hạn chế, đày cho nó giảm cân nó mới chịu đẻ. Cho ăn đầy đủ mập ú thì không con nào có được một bầy ròng ròng”.
“Trả lời thư người hâm mộ”
Bây giờ “vua cá lóc” có 3.000 m2 mặt nước, mỗi năm thả nuôi 300.000 con “cá lóc môi trề”, tự lo luôn khâu con giống và mức lãi ròng hàng năm từ 100 triệu đến 400 triệu đồng tùy theo giá cá lóc trên thị trường. Năm người con của “vua cá lóc” cũng nối nghiệp cha với hơn 1 ha diện tích mặt nước, mỗi năm thu lãi hàng trăm triệu đồng/người. Danh tiếng “vua cá lóc” Sáu Dính (Nguyễn Văn Dính) ngày nay không còn hạn hẹp trong phạm vi tỉnh Đồng Tháp mà đã vang xa khắp xứ Nam Kỳ lục tỉnh. “Vua cá lóc” Sáu Dính khoe với tôi: “Qua lúc này ngoài chuyện tiếp khách còn kiêm luôn mục “Trả lời thư người hâm mộ”. Hầu như tuần nào cũng có vài cái thư của cô bác nông dân khắp nước gửi về thăm hỏi, tìm hiểu kinh nghiệm, trả lời mệt xỉu”.
Trước lúc chia tay, “vua cá lóc” Sáu Dính bày tỏ với tôi: “Nuôi cá lóc trong mùng lưới là giải pháp xóa đói giảm nghèo nhanh nhất đối với nông dân vì có thể nuôi đến 200 con trong 1 m3 nước mà vẫn có lời, không tốn chi phí đào hầm, ít hao hụt. Qua nói thiệt với chú em, cái nghề nuôi cá lóc này chỉ cần trì chí thì cá không phụ lòng người, bởi lẽ thả nuôi 100 con mà cho thu hoạch 90 con thì có đi ăn cướp cũng không giàu bằng người nuôi cá. Chẳng phải ông bà mình đã từng khuyên con cháu câu: Muốn giàu nuôi cá đó sao?”
Bình luận (0)