"Trong chỉ tồn ai nấy cũng nghe tin ông Ninh vào, đều lấy làm kinh dị, ngơ ngáo nhìn nhau không biết là chuyện gì. Một lát nhìn ra sân, thấy anh bồi rôn mặc đồ trắng chạy trước; một người mặc đồ xanh, nẩm thấp, trọc đầu, lúp xúp chạy theo sau, giọt mưa điểm ướt mặt, mà miệng vẫn chúm chím cười.
“Ông Ninh thật! Chết nỗi!...
“Cửa vừa đóng lại, thiên hạ vây chung quanh ông. Khám bên kia có mấy người chun song sắt qua chào.
“Người năm xưa viết Báo La Cloche Fêlée, làm cho một góc trời Nam chấn động, bọn thanh niên đột khởi như sóng điện nổi trong lòng, phồn gian nịnh ghê hồn như búa trời sa trước mặt, mà cả nước bước một bước dài trên con đường cải cách; người ấy là người “quyết sống đặng làm cho điều phải nó thắng điều quấy”, hôm nay vì binh vực một đứa ngu không đáng binh vực là tôi, mà phải nhẫn nhục “chịu cho điều quấy nó đè ép”, mới đáng thương, đáng thảm là dường nào!”
(Phan Văn Hùm, Ngồi tù Khám Lớn).
Cuốn Ngồi tù Khám Lớn nguyên là một thiên phóng sự đăng trên Báo Thần Chung năm 1929, sau đó được in thành sách và dĩ nhiên, đã bị nhà cầm quyền Pháp tịch thu. Phải đợi đến 28 năm sau vào thời vàng son của chế độ Ngô Đình Diệm mới được tới tay độc giả.
Đây không những là một chứng tích xác thực, đầy đủ và hết sức sống động về chế độ lao tù dưới thời thực dân, mà còn là một áng văn hay, đánh dấu giai đoạn trưởng thành của văn chương quốc ngữ tại miền Nam.
Nhờ bút pháp tài tình của ông Hùm, cái khám lớn đường D’ Espagne (bây giờ là Lê Thánh Tôn), cái Sầu thành nằm ngay Tòa đô thành Sài Gòn, tuy đã mất đi, nhưng vẫn còn đó để nhắc các thế hệ đến sau những gì mà các thế hệ đi trước đã phải chịu đựng trên những chặng đường cam go của lịch sử.
Cũng nhờ bút pháp tài tình ấy, chúng ta còn giữ lại được hình ảnh thật sống của Nguyễn An Ninh như trong đoạn văn được trích dẫn trên đây. Thứ năm vừa qua tôi đã đọc lại Ngồi tù Khám Lớn để tìm lại những hình ảnh đó, trước khi tháp tùng ông chủ nhiệm Báo Điện Tín, đi viếng ngôi mộ của nhà chí sĩ tại Côn Sơn.
Gần nửa thế kỷ đã qua, từ cái ngày ông Hùm ngồi trong “chỉ tồn” nhìn ông Ninh chạy lúp xúp theo anh “bồi tòa”, mặt đẫm nước mưa mà miệng cười chúm chím. Cả hai ông đã qua đời, một cách bi thảm, một người chết mòn vì bịnh hoạn trong địa ngục Côn Sơn, một người bị sát hại ngay vào buổi rạng đông của cuộc cách mạng dân tộc.
Sự nghiệp không thành, nhưng cuộc đời của hai ông vẫn là hai tấm gương sáng cho đàn hậu tấn noi theo. Riêng tại miền Nam này, hai ông vẫn giữ một chỗ đứng đặc biệt trong tâm hồn quần chúng, không những vì là những nhà trí thức Tây học đầu tiên đã dám đứng về phía quần chúng, tranh đấu và sống chết với quần chúng, mà còn vì hai ông đã kết tinh được tất cả cái hào khí của Đồng Nai, vùng đất của sự phóng khoáng của tánh cương trực, của lòng quảng đại, vùng đất của Lục Vân Tiên.
Người ta nói ông Ninh theo chủ nghĩa Nietzche, ông Hùm là người thuộc đệ tứ hay đệ ngũ gì đó. Tôi không có nghiên cứu về hai ông nên chẳng biết sự xếp loại có đúng hay không.
Nhưng có điều chắc chắn là cả hai ông đều nằm trong cái truyền thống hào hùng của nhân dân xứ này, truyền thống của những con người bất khuất “ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” những con người biết nhận định lẽ phải và dám dấn thân tranh đấu cho lẽ phải.
Ông Ninh đã “quyết sống đặng làm cho điều phải nó thắng điều quấy”. 80 năm trước, cụ Đồ Chiểu đã chẳng làm gì khác hơn:
“Chở bao nhiêu đạo, thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian, bút chẳng tà”.
Và thời ông Ninh cũng như thời cụ Đồ cái “điều quấy” là cuộc xâm lăng và ách đô hộ của thực dân Pháp, cái “điều phải” là cuộc chiến đấu giành lại lãnh thổ và chủ quyền của dân tộc Việt.
Phải và quấy, chánh và tà, chân và ngụy, không thể thỏa hiệp với nhau:
“Mến nghĩa bao đành làm phản nước
Có nhân nào nỡ phụ tình nhà
Xưa nay đều chọn đường trung hiếu
Sách vở còn ghi lẽ chánh tà”
(Nguyễn Đình Chiểu)
Những kẻ chủ trương thỏa hiệp, như Tôn Thọ Tường, chỉ có thể là quân bán nước.
Điều đau xót là trong ngắn hạn, cái “điều quấy” bao giờ cũng mạnh hơn cái “điều phải”, khiến cho những người tranh đấu cho lẽ phải luôn luôn phải gánh chịu những hoạn nạn gian truân và thường là phải nhắm mắt trước khi thắng lợi ngã về phía lẽ phải.
Nhưng họ đã dám tranh đấu vì họ tin nơi lẽ phải, vì họ tin nơi con người, họ có ngã xuống, muôn vạn người khác sẽ đứng lên và lẽ phải, sau cùng, sẽ toàn thắng.
Từ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị tới Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm và tới chúng ta ngày hôm nay, vẫn chỉ ở một vấn đề là làm sao cho “điều phải nó thắng điều quấy”.
Hoàn cảnh có khác nhau, hình thức của cái phải cái quấy có thay đổi, nhưng bản chất của vấn đề là một: nó là sự thách đố của lịch sử mà mỗi thế hệ phải trả lời.
Trả lời như những con người đích thật.
Để cho thế hệ này qua thế khác, trên những chặng đường gian truân của dân tộc, điều phải, cuối cùng sẽ thắng được điều quấy!
13-8-1972
Lý Chánh Trung
Nguyễn An Ninh (1900 - 1943) Nguyễn An Ninh xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo yêu nước ở Mỹ Hòa, huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định (nay là TPHCM). Thuở nhỏ học ở Sài Gòn, sau đó du học Pháp và đỗ cử nhân Luật năm 1920, lúc mới 20 tuổi. Trong thời gian ở Paris, ông liên hệ với các nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường và cũng từng tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc. Năm 1922, ông về nước, bắt đầu ra mắt công chúng với những bài diễn thuyết đề cao tinh thần yêu nước, chống chế độ thực dân Pháp. Cuối năm 1923, ông cho ra tơÂ Báo La Cloche Fêlée (Cái chuông rè), tự chăm sóc tờ báo về mọi mặt. Ông còn soạn các sách: Tôn giáo, Trưng nữ vương, Dân ước... Tháng 3-1926 ông bị bắt giam 10 tháng. Sau khi được “ân xá”, ông lại sang Pháp tiếp tục hoạt động và học chương trình tiến sĩ Luật. Năm 1928, ông trở về nước tích cực hoạt động chống Pháp. Cuối năm này, ông lại bị bắt, kết án 3 năm tù với tội “Hội kín Nguyễn An Ninh”; được tha vào năm 1930. Sau đó, ông lần lượt vào tù, ra khám nhiều lần: vào tháng 4-1936, được tha tháng 11-1936; đến tháng 7-1937 lại bị bắt giam cho đến tháng 1-1939. Đến ngày 5-10-1939, ông bị kết án 5 năm tù lưu đày Côn Đảo. Ông bị đày đọa kiệt sức và đã chết trong tù ngày 14-8-1943, hưởng dương 43 tuổi. (Nguồn: Tư liệu của Người Lao Động) |
Bình luận (0)