Trần Bạch Đằng là một nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà báo. Ông còn là một nhà chính trị lão thành của Việt Nam đã tham gia hoạt động cách mạng từ trước năm 1945. Ông cũng là tác giả của quyển tiểu thuyết viết về một nhân vật tình báo bí ẩn trong lịch sử Chiến tranh Việt Nam: Đại tá Phạm Ngọc Thảo, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý.
Ông tên thật là Trương Gia Triều, sinh ngày 15 tháng 7 năm 1926 tại Rạch Giá, Kiên Giang. Ông là cháu nội nhà chí sĩ yêu nước Trương Gia Mô (còn gọi là cụ Nghè Mô).
Về sự nghiệp chính trị, ông tham gia cách mạng từ khi mới 17 tuổi. Năm 1946, ông đã được giao phụ trách tờ Chống Xâm Lăng của Thành ủy Sài Gòn. Năm 1951 làm tổng biên tập báo Nhân Dân Miền Nam của Trung ương Cục. Trong suốt Chiến tranh Việt Nam, ông lần lượt đảm trách nhiều cương vị quan trọng như bí thư Thành ủy Sài Gòn, phụ trách Ban tuyên huấn Trung ương Cục, Ủy viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Sau khi Việt Nam thống nhất, ông không tham gia vào các chức vụ trong chính quyền, tập trung vào sự nghiệp nghiên cứu và viết báo.
![]() |
Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân (bìa trái) cùng người thân trong giờ nhập liệm đồng chí Trần Bạch Đằng. Ảnh: Thanh Hiệp |
Về sự nghiệp văn chương, do ảnh hưởng của gia đình, lòng ham thích văn chương hình thành trong ông rất sớm. Năm 1943, ông đã có những bài thơ đầu tay như: Trên bờ Đồng Nai; Dấu cũ; Chiếu rách mưa đêm; Dạy học lậu...
Trong sự nghiệp của mình, ông có nhiều bút hiệu như: Hưởng Triều, Nguyễn Hiểu Trường, Nguyễn Trương Thiên Lý, Trần Quang... và tham gia ở nhiều thể loại khác nhau.
Về truyện ngắn, ông có nhiều tác phẩm mang tính thời sự như: Bác Sáu Rồng (1975); Một ngày của bí thư tỉnh ủy (1985); Chân dung một quản đốc (1978); Ngày về của ngoại (1985)
Về kịch nói, ông có: Trần Hưng Đạo bình Nguyên (1951); Nửa tuần trăng kỳ lạ (1984); Tình yêu và lời đáp (1985); Một mùa hè oi ả (1986); Một mối tình (1987)
Về lĩnh vực điện ảnh, ông cũng tham gia nhiều kịch bản phim được đánh giá cao như: Ông Hai Cũ (2 tập, 1985-1987); Dòng sông không quên (1989); Ván bài lật ngửa (9 tập, 1982-1988)
Ông cũng tham gia biên soạn hoặc làm chủ biên nhiều công trình khoa học như: Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh; Địa chí Đồng Tháp Mười; Địa chí Sông Bé; Lịch sử Nam Bộ kháng chiến...
Về thể loại báo chí, ông được xem là một cây bút tích cực phê phán tiêu cực và có nhiều kiến nghị sâu sắc về việc đổi mới đất nước. Nổi bật nhất có Đổi mới - Đi lên từ thực tế (NXB Trẻ, 2000) gồm 112 bài tuyển chọn từ 1975-2000, với 3 phần: Thôi thúc của đổi mới (1975-1985), Gian nan những bước đầu (1986-1991), Chín năm cho một cuộc hồi sinh (1992-2000).
Tuy nhiên, ông gắn bó lâu dài với thể loại thơ hơn cả với các tập thơ: Bài ca khởi nghĩa (1970); Hành trình (1972); Theo sóng Đồng Nai (1975); Đất nước lại vào xuân (1978); Những cái tên đồng bằng (1986); Tuyển tập Hưởng Triều (1997)
Bình luận (0)