Từ ngày
Càng hội nhập càng thu được nhiều lợi ích.- Dưới góc độ của một tổ chức tài chính quốc tế hàng đầu thế giới chuyên về hỗ trợ cho các quốc gia trên thế giới chuyển đổi và cơ cấu lại kinh tế nhằm thúc đẩy hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh, Trưởng đại diện IMF, bà Susan J. Adam thẳng thắn bày tỏ lo ngại về khả năng cạnh tranh của nền kinh tế VN trong thời gian 3-5 năm nữa khi mà VN hoàn thành việc cắt giảm thuế 0 - 5% theo tiến trình AFTA. Lý giải về nhận định của mình, bà Susan cho rằng VN không phải là một quốc gia có thể thay đổi nhanh trước các biến động của thế giới.
Chia sẻ nhận định của người đồng nhiệm của IMF, Giám đốc quốc gia VN của ADB, ông John Samy cũng bày tỏ lo ngại về khả năng cạnh tranh của VN khi ngay từ năm 2003 bắt đầu phải đưa khoảng 700 mặt hàng từ danh mục tạm thời loại trừ (TEL) sang danh mục loại trừ và cắt giảm hàng rào thuế quan xuống 0-5% vào năm 2006. Hiện chiếm khoảng 20% tổng trao đổi ngoại thương của VN, cuộc hội nhập AFTA chắc chắn sẽ mang lại nhiều thách thức không nhỏ cho một quốc gia có khả năng cạnh tranh chưa cao như VN.
Không trực tiếp đề cập tới khả năng cạnh tranh của VN khi bước vào “sân chơi” AFTA cũng như nền kinh tế thế giới, Giám đốc quốc gia WB, ông Klaus Rohland lại nhấn mạnh tới những lợi ích mà hội nhập mang lại cho VN, đất nước mà ông mới bắt đầu nhiệm kỳ của mình trong thời gian chưa lâu. Theo ông Klaus, không chỉ riêng VN mà tất cả các nước trên thế giới đều có lợi ích từ việc mở cửa với thế giới. VN sẽ thu được những lợi ích lớn từ việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và thêm những lợi ích tương lai khi hội nhập nhiều hơn nữa. Dưới cách nhìn này, Hiệp định Thương mại VN-Mỹ (BTA) là tiêu biểu cho một bước đi đúng hướng. Việc phê chuẩn và thực thi BTA đã giúp VN thu được thêm 1 tỉ USD xuất khẩu sang Mỹ trong năm qua. Nhìn xa hơn AFTA, Giám đốc quốc gia WB cho rằng gia nhập WTO sẽ đưa lại cơ hội xuất khẩu lớn cho nhiều mặt hàng của VN. Dẫn ra ví dụ Trung Quốc, ông Klaus nói việc gia nhập WTO đã mang lại những lợi ích to lớn về cải thiện khuôn khổ pháp lý, tính minh bạch, tăng năng suất và nguồn tài chính đổ vào... Là thành viên của WTO, VN có thể bảo vệ tốt hơn các lợi ích của mình thông qua việc tận dụng các cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Vụ kiện cá tra, cá basa cho thấy điều này là quan trọng như thế nào. Giám đốc quốc gia WB thành thật khuyến nghị VN nên cố gắng gia nhập WTO trước khi kết thúc Chương trình phát triển Doha vào 1-1-2005 vì sau đó điều kiện gia nhập tổ chức này sẽ hết sức khó khăn.
Ai là người lựa chọn thế mạnh cạnh tranh?.- Bà Trưởng đại diện IMF tỏ ý lo ngại trước quan điểm của một số nhà kinh tế khi cho rằng VN nên phá giá đồng tiền 30 - 40% để nâng cao khả năng cạnh tranh. Dưới góc độ nhận định của IMF, bà Susan cho rằng, IMF không nhận thấy sức ép lớn đối với tỉ giá hối đoái và trên thực tế biên độ đồng VN chưa bao giờ lên đến biên độ tối đa. Vì thế, một sự phá giá đồng VN không dựa trên một cơ sở tính toán kỹ luỡng, toàn diện sẽ tạo ra sự thay đổi lớn giữa các nhóm hàng xuất khẩu và hàng không xuất khẩu, có thể dẫn tới lạm phát cao và người gánh chịu cuối cùng lại chính là những người dễ bị tổn thương nhất - người nghèo.
Nhìn nhận về việc làm thế nào để nâng cao khả năng cạnh tranh của VN khi bước vào “sân chơi” AFTA cũng như nền kinh tế thế giới, Giám đốc quốc gia WB, ông Klaus Rohland nêu một thực trạng phổ biến khi rất nhiều người cho rằng nâng cao hiệu quả là điều quan trọng nhất để VN có thể cạnh tranh tốt nhất trên thị trường thế giới. Theo ông Klaus, đó là một nhận thức sai lầm. Giám đốc quốc gia WB lý giải, nâng cao năng suất của VN cần phải bao hàm mức sống cao hơn cho mọi người dân VN. Điều này cho thấy điều quan trọng đối với VN phải duy trì sự ổn định của kinh tế vĩ mô khi đẩy mạnh chương trình cải cách, nhất là cải cách thương mại, cơ cấu lại các ngân hàng và doanh nghiệp Nhà nước, cải thiện quản trị Nhà nước và công cộng, khuyến khích môi trường cho khu vực tư nhân phát triển...
Cũng góc nhìn của WB, vị đại diện ADB cho rằng VN cần phải giải quyết khả năng cạnh tranh ở cả tầm vĩ mô và vi mô, nhìn nhận khả năng cạnh tranh của VN ở một viễn cảnh rộng hơn. Tầm vĩ mô là chuyện của Chính phủ, nghĩa là tạo ra môi trường cho sự cạnh tranh, phát triển. Vi mô, ấy là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, xí nghiệp. Vị đại diện WB tại VN cho rằng, Chính phủ không thể là người lựa chọn đâu là lĩnh vực cạnh tranh có hiệu quả nhất. Chính phủ cần tạo ra một môi trường thuận lợi cho kinh doanh. Các thành phần kinh tế sẽ tự biết cách tìm ra những lĩnh vực cạnh tranh có ưu thế. Cải thiện môi trường kinh doanh, đầu tư sẽ tạo ra môi trường tốt thu hút đầu tư nước ngoài để VN có thể đa dạng hóa sản xuất và theo kịp công nghệ hiện đại. Đó là những yếu tố quan trọng của phát triển.
Theo Trưởng đại diện IMF, VN bước vào cuộc cạnh tranh lớn với vị trí xuất phát không cao. Giới doanh nghiệp chưa có được sự chuẩn bị tốt để tham gia hội nhập. VN có ưu thế dồi dào và rẻ về lao động tay nghề thấp nhưng ngược lại có chi phí lao động lành nghề cao hơn nhiều nước khu vực... Những nhân tố này ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của VN, nhưng VN vẫn có thể cạnh tranh có hiệu quả nếu nhận biết được đâu là thế mạnh và điểm yếu của mình. Phát triển các ngành công nghiệp nặng hay công nghệ, kỹ thuật cao... là cần thiết cho mọi quốc gia nhưng chưa phải là những lĩnh vực mà VN nên đặt ưu tiên vào lúc này. Lợi thế của VN? Đó là những lợi thế vị trí địa lý tự nhiên, là những mặt hàng nông, lâm và hải sản đã khẳng định vị trí trên thị trường thế giới. Bà Susan đã nhấn mạnh tới lợi thế dân số cơ học của VN, quốc gia 80 triệu dân có tới 50% số dân dưới 25 tuổi. Vị đại diện của IMF rất ấn tượng về đức tính cần cù, chịu khó học hỏi của người dân VN. Tính cách đó tồn tại một cách tự nhiên trong con người VN. Với thế của mình, VN cần phát huy những ngành sản xuất thu hút nhiều nhân công như công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến, thủ công...
Động lực gia tăng sức cạnh tranh.- Đại diện của ba tổ chức tài chính hàng đầu thế giới cũng có cách nhìn nhận tương đồng nhau rằng, nỗ lực cải cách của Chính phủ sẽ là một trong những động lực quan trọng nhất để nâng cao khả năng cạnh tranh của VN. Trưởng đại diện WB cho rằng cần phải kiên trì các nỗ lực cải cách như tự do hóa thương mại, cải cách khu vực doanh nghiệp và ngân hàng Nhà nước, nâng cao khả năng điều hành của Chính phủ và hành chính công... Ông Samy nêu ra một thực trạng đáng suy nghĩ khi một số liệu thống kê cho thấy có tới 24% số doanh nghiệp Nhà nước không biết tới lịch trình cắt giảm thuế quan của VN theo AFTA. Nâng cao khả năng cạnh tranh, VN không thể không cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước hiện chiếm tới 40% GDP, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng và minh bạch cho mọi thành phần kinh tế.
Bà Susan cho rằng hội nhập là một tiến trình và tiến trình ấy đã bắt đầu đối với VN. Không ai có thể còn nấn ná với lý do rằng cần có thêm thời gian để chuẩn bị. Đơn giản là không có chuyện cứ đóng chặt cánh cửa để âm thầm chuẩn bị để rồi đến lúc nào đó hô to, chúng tôi đã chuẩn bị xong rồi mở ra đi! Cũng không thể bám giữ mãi lấy suy nghĩ rằng khi chưa đủ sức cạnh tranh thì Nhà nước phải bảo hộ, bảo vệ.
Vị đại diện IMF hình dung nền kinh tế VN hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới như một chiếc thuyền ra biển lớn. Thị trường thế giới mênh mông như đại dương lắm tôm nhiều cá song cũng có vô khối sóng dữ và đá ngầm luôn rình rập. Không ra khơi xa, không thể bắt được cá lớn và quan trọng hơn là không thể trưởng thành. Nhưng ra khơi cũng cần biết nơi nào có tôm, có cá và nơi nào nhiều đá ngầm, sóng lớn. Ngày nay, kinh tế các quốc gia không khác nào một con tàu được đóng là để ra khơi, chứ không phải nằm yên trên bến cảng.
Con tàu nào có được cơ cấu tốt và một đội ngũ thủy thủ tinh luyện, con tàu ấy ắt sẽ lướt rất vững vàng trên biển khơi lộng gió.
Việt Theo quy định của Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA), các nước ASEAN sẽ cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hóa của mình xuống còn 0 - 5% trong vòng 15 năm (bắt đầu từ ngày 1-1-1993 và kết thúc vào ngày 1-1-2008). Tùy theo mức độ và lịch trình cắt giảm thuế, hàng hóa của các nước ASEAN được phân loại theo 4 nhóm danh mục: 1. Danh mục cắt giảm ngay (IL): Gồm có 15 nhóm mặt hàng cần cắt giảm nhanh trong vòng 7 năm, như dầu thực vật, phân bón, giấy và bột giấy, sản phẩm cao su... và những mặt hàng được cắt giảm thuế xuống còn 0 - 5% vào năm 2003 đối với 6 nước thành viên cũ (ASEAN 6), năm 2006 đối với 4 nước thành viên mới (ASEAN 4, trong đó có VN)... 2. Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): Gồm những sản phẩm mà các nước chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay do cần có thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước. Tuy nhiên, từ 3. Danh mục hàng nhạy cảm (SL): Gồm các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến. Thời hạn giảm thuế cho hàng hóa thuộc danh mục này kéo dài tới năm 2010, năm 2013 đối với các nước ASEAN 4, trong đó có VN. 4. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Gồm các sản phẩm không đưa vào thực hiện cam kết AFTA vì những lý do bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức khỏe... Đối với VN, lộ trình thực hiện những cam kết được phép kéo dài hơn so với những nước ASEAN 6. Tuy vậy, đến năm 2002, VN đã chuyển được 5.550 dòng thuế vào danh mục IL, chiếm 85% trên tổng số 6.400 dòng thuế sẽ được thực hiện cắt giảm. Còn khoảng 760 dòng thuế nằm trong danh mục TEL sẽ được chuyển vào danh mục IL vào năm 2003. Cụ thể, từ H.Thuần tổng hợp |
Bình luận (0)