Theo kế hoạch, Luật Giáo dục đang được lấy ý kiến để bổ sung, sửa đổi và sẽ chính thức trình Quốc hội xem xét thông qua vào kỳ họp tháng 11-2004. Giới thiệu bài viết của TS Lê Vinh Danh, chúng tôi muốn cùng bạn đọc góp thêm tiếng nói vào cuộc tranh luận có hay không thị trường giáo dục hay thương mại hóa giáo dục ở VN.
Tính hiệu quả của mọi hoạt động phần lớn thể hiện ở chỗ nó phải sinh được lợi nhuận sau khi trừ hết mọi chi phí và các khoản thuế. Sản xuất hay cung ứng dịch vụ chỉ được xem là hiệu quả khi và chỉ khi nó mang đến lợi nhuận. Tính hiệu quả của hầu hết các hoạt động xã hội lại được đo bằng cán cân chi phí-lợi ích và sự lớn hơn của lợi ích so với chi phí bỏ ra trong mọi hoạt động luôn là minh chứng của hiệu quả.
Dịch vụ công và dịch vụ xã hội đơn thuần
Từ đây, có mấy vấn đề chúng ta cần làm rõ: Hoạt động giáo dục, cũng như rất nhiều loại hình hoạt động xã hội tương tự khác, là hoạt động cung ứng dịch vụ cho con người. Nếu dịch vụ giáo dục từ mẫu giáo đến hết đại học được xác định là hoạt động độc quyền của Nhà nước như một trách nhiệm của chính quyền phúc lợi kiểu Phần Lan, Đan Mạch hay Đức hiện nay, lúc ấy giáo dục sẽ được gọi là dịch vụ công. Hoạt động dịch vụ công thường không nhằm bất kỳ mục tiêu tạo thặng dư giá trị nào trong ngắn hạn, mà chỉ duy trì chi phí cân bằng với lợi ích mang lại.
Trong trường hợp ngân sách không đủ sức cáng đáng, Nhà nước phải mở rộng hình thức tài trợ bằng cách kêu gọi nhân dân tham gia vào hoạt động này. Lúc đó, giáo dục không còn là dịch vụ công, mà chỉ là một loại hình dịch vụ xã hội đơn thuần.
Lợi nhuận và sự tích cực
Và một khi đã có sự đầu tư của tư nhân, việc họ tính toán phải làm sao để lợi ích luôn lớn hơn chi phí là điều tất nhiên, bởi nếu điều đó không xảy ra ở họ cũng như ở các hoạt động xã hội khác, hoạt động giáo dục nói riêng, cả đất nước nói chung, không thể được gọi là hiệu quả.
Như vậy, tạo được thặng dư giá trị (khoảng chênh lệch lớn hơn không) giữa lợi ích và chi phí) hay lợi nhuận trong hoạt động cung ứng dịch vụ giáo dục phải được xem là sự tích cực. Nếu các cơ sở giáo dục trong nước không tạo được lợi nhuận từ hoạt động thường niên của mình thì đó là điều đáng báo động vì nó phản ánh một chuyện thực tế là đơn vị đấy không có tương lai, và giới quản trị đã làm việc không hiệu quả.
Không vì lợi nhuận cá nhân, hạn chế tích tụ cá nhân
Có hai vấn đề tồn tại và thực sự đáng suy nghĩ, đó là: 1) Lợi nhuận ấy được sử dụng cho ai và như thế nào? 2) Nếu có những đơn vị giáo dục quá quan tâm đến lợi nhuận đến mức tìm mọi cách tăng sự đóng góp của người học một cách quá đáng trong khi lại nỗ lực giảm chi phí bằng cách không đầu tư xứng đáng vào phương tiện học tập, cắt giảm chương trình..., lúc ấy giải pháp của xã hội nên như thế nào?
Để giải quyết những tồn tại này, thuế và cách đánh thuế là biện pháp tốt và hợp lý nhất của Nhà nước. Có hai hướng làm: Nhà nước có thể phân các nhà đầu tư tư nhân vào giáo dục thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là nhóm mưu cầu lợi ích, nhưng tình nguyện không sử dụng phần lớn lợi ích vào mục đích tăng tài sản cá nhân, mà dùng lợi ích này để phát triển mở rộng quy mô và chất lượng cơ sở giáo dục. Ở nước ngoài, trường đại học nhóm này được gọi là đại học tư không vì lợi nhuận cá nhân (non-profit university). Chính phủ cấp đất và hầu như miễn thuế hoàn toàn cho đơn vị đại học, với một ràng buộc nhất định rằng đến 70% (hoặc có thể hơn) lợi nhuận thường niên được sử dụng để tăng quy mô vật chất, củng cố chất lượng cơ sở và phân bổ cổ phần cho những người có quá trình làm việc, cống hiến cho sự phát triển của trường liên tục từ 10 năm trở lên. Chính sách trên dẫn tới một hệ quả rất tốt là những trường loại này sau khoảng 5, 7 thập niên trở lên, đều thành những trường có hệ thống hạ tầng và chất lượng hoạt động cao.
Với các đại học tư nhân không đăng ký tình nguyện sử dụng lợi ích của cơ sở đào tạo vào việc phát triển chất lượng và quy mô cơ sở như loại hình trên, họ không nhận bất kỳ ưu đãi nào của Nhà nước. Nhà nước để họ tự do quyết định lợi nhuận sau thuế của mình, nhưng đánh thuế rất nặng như một loại hình kinh doanh dịch vụ (mức thuế lợi tức thường từ 30% trở lên trên tổng lợi nhuận thường niên) rồi dùng những khoản tiền thu được này củng cố chất lượng của các cơ sở giáo dục công lập. Bằng cách này, đất nước hạn chế được việc tích tụ tài sản vào một số nhóm cá nhân. Nguy cơ sử dụng lợi nhuận giáo dục vào mục tiêu tăng tài sản cá nhân dần dần bị loại trừ, trong khi vẫn khuyến khích được đầu tư tư nhân vào giáo dục có chất lượng.
Tiến sĩ Lê Vinh Danh
-------------------------
Sôi động giáo dục ngoài công lập
“Vào lúc... giờ ngày... tại... sẽ diễn ra hội thảo du học... Đến với hội thảo, bạn có cơ hội tham gia chương trình học bổng trị giá... %...”. Những dòng quảng cáo trên đây xuất hiện hầu như hằng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Theo số liệu không chính thức, các bậc phụ huynh nước ta đã phải bỏ ra tới 200.000 USD mỗi năm để lo cho con em mình ăn học tại Úc với học phí ĐH lên tới chục ngàn USD/năm.
Náo nhiệt đến như vậy nhưng xem ra, hoạt động du học nước ngoài cũng chỉ chiếm một phần nhỏ trong những hoạt động giáo dục ngoài công lập (NCL). Tại nhiều TP, thị xã, thị trấn, những ngôi trường dân lập từ cấp mẫu giáo đến ĐH mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều ngôi trường quốc tế, cũng từ cấp mẫu giáo cho đến ĐH, đã mọc lên bề thế khang trang ở VN. Sôi động không kém là vô số các trung tâm tin học, ngoại ngữ, kế toán... xuất hiện hầu như khắp nơi, từ TP đến nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi.
Trong khi cuộc tranh luận về việc có hay không thị trường giáo dục hay thương mại hóa giáo dục ở nước ta tiếp diễn thì giáo dục NCL vẫn đang phát triển hết sức sôi động với nhiều vấn đề không thể kiểm soát nổi do thiếu “cây gậy” chính sách và luật pháp. Không nhìn nhận thực chất giáo dục NCL hiện nay ở nước ta là gì để đưa ra những văn bản pháp quy phù hợp, chúng ta vô phương quản lý giáo dục NCL, đặc biệt trong bối cảnh sắp tới còn thực hiện mạnh hơn nữa chủ trương xã hội hóa giáo dục.
PHẠM DƯƠNG
Bình luận (0)