Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” của Paul Doumer (Toàn quyền Đông Dương từ năm 1897 đến 1902) vừa được NXB Thế giới, Alpha Books ấn hành. Trong cuốn sách này, Paul Doumer đặc biệt lưu ý đến Đà Nẵng không chỉ vì vị trí địa lý đắc địa mà còn vai trò của ông trong việc mở đường nối liền Đà Nẵng với Huế, cử người tìm ra Bà Nà và xây dựng cảng biển…
Mở đường từ Huế - Đà Nẵng
Trước Paul Doumer, đã có nhiều người nước ngoài thực hiện hành trình đường bộ từ Huế vào Đà Nẵng như thương nhân người Anh Thomas Bowyear (năm 1695), thương gia Piere Poivre (cuối năm 1749), nhà du hành người Anh John Crawfurt (1822)… 50 năm sau, đại úy viễn chinh Dutreuil de Rhins miêu tả đoạn đường rừng vượt đèo Hải Vân rất gian nan với đường mòn dốc đứng, những nỗng cát ven biển và thú dữ. Các chuyến đi đó vừa bằng đường bộ vừa bằng ghe thuyền qua các đoạn đầm phá Cầu Hai, Lăng Cô tốn khá nhiều thời gian và phải ngủ đêm ở các trạm dọc đường…
Vài tháng trước khi Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đi từ Huế vào Đà Nẵng (tháng 3-1897), đoạn đường này đã được cải tạo giảm độ dốc chỉ còn tối đa 12%, xây dựng nhiều cầu bằng tre và gỗ qua suối hay hố sâu. Nhờ thế, Paul Doumer và mấy sĩ quan tùy tùng người Pháp đã có thể cưỡi ngựa qua đèo trong khi Phụ chính đại thần Nguyễn Thân và các vị thượng thư triều đình Huế đi võng lọng. Ngoài võng, các quan An Nam còn có thêm một xe kéo dự phòng.
“Một dòng người dài như thân rắn đi trên một tuyến đường ưu tiên tạm gọi là quan lộ… Quan Phụ chính đại thần Nguyễn Thân cùng với 2 vị thượng thư và quan lại đưa tôi đến tận Đà Nẵng. Theo sau là cả một đội lễ nhạc với tiếng cồng và chiêng…” - Paul Doumer hồi tưởng. Trên đường đi, các vị chức sắc trong làng đã đặt bàn thờ và lễ cúng. Nghi lễ vừa tốn kém vừa ồn ào đó khiến vị Toàn quyền Đông Dương này cảm thấy không thoải mái. Cuối hành trình, ở đoạn qua đèo Hải Vân, Paul Doumer đã thoát được đoàn tùy tùng và cùng một đại úy cận vệ phóng ngựa phi lên trước.
Đèo Hải Vân đã thay đổi đáng kể vào năm 1897, như lời Paul Doumer. Các sĩ quan người Pháp bắt đầu thi công một số hạng mục đã nghiên cứu từ 10 năm trước. Nhờ đó, người ta có thể đi ngựa qua con đường mòn mới mở rộng, những cây cầu tạm bằng tre và sắt.
Trong khi vào năm 1897, Huế chỉ có một chức năng là phục vụ hoàng gia và các thành viên và không mấy náo nhiệt thì Đà Nẵng khá hơn khi bước vào phía Nam đèo Hải Vân. Theo “Đại Nam chính biên thực lục”, năm 1809, Gia Long ra lệnh cho dân làm đường từ Huế đến đèo Hải Vân, rộng đến 3 trượng (tức 12 m) và có trồng các loài danh mộc, nhất là cây mù u (nam mai mộc) ở hai bên. Nhưng con đường đến Đà Nẵng từ phía Bắc đến Liên Chiểu vẫn là một thách đố của các chuyến đi…
Thành phố buồn
Trong nhiệm kỳ của mình ở Đông Dương, Paul Doumer đã qua lại đèo Hải Vân rất nhiều lần. Sự hưng phấn của ông trong những dòng sau đây về Đà Nẵng thật đắt giá: “Dưới kia, vịnh Đà Nẵng hiện ra. Không một cảnh quan thần tiên nào của Địa Trung Hải vừa có được cái đẹp và cái to tát này. Cứ thử lấy một nơi xinh nhất của Bờ Biển Xanh (Côte d’Azur) như vịnh Villefranche rồi nhân lên mười lần hay hai mươi lần, các vị sẽ hình dung được Đà Nẵng. Thực vậy, chỉ duy cảnh này thôi cũng đáng cho những người nhàn rỗi đi du lịch từ Pháp sang Viễn Đông, nơi còn có nhiều cái khác đáng quan tâm và thưởng lãm” và hiếm thấy ở đâu một không gian trắng mờ như thế…”.
Khi Paul Doumer đi đường bộ vượt Hải Vân đến ngôi làng Liên Chiểu, tại đây đã có một tuyến đường sắt dài 15 km đi vào thành phố và cả tàu của nha thuế vụ. Ông đã xuống ngựa để tiếp tục hành trình…
Xe lửa chạy bằng máy hơi nước do một cựu sĩ quan Thủy quân Pháp lái chạy dọc bờ biển. Đà Nẵng là nhượng địa được đặt dưới sự cai quản của một phủ Công sứ, một số nhỏ cơ quan chính quyền như nha thuế vụ và bưu điện, đồn bộ binh và sở cảnh sát. Một bệnh viện được xây dựng trên một pháo đài cổ gần biển “thật thoáng mát, sạch sẽ và thoải mái” cùng một Phòng Canh nông và Thương mại Trung Kỳ. Ở Đà Nẵng, tuy dân cư còn thưa thớt nhưng đã có một chủ trang trại trồng chè bán đi châu Âu tên là Lombard; một hãng vận tải biển của ông chủ Berttrand gửi hàng đi Sài Gòn và Hải Phòng 2 chuyến/tuần. Nơi này cũng có một luật sư và một dược sĩ kinh doanh thuốc nhưng cả hai đều than phiền ít khách hàng!
Paul Doumer tỏ ra không đồng tình với sự phát triển mà đáng lẽ ra nó phải có sau 10 năm trở thành nhượng địa… Trong hồi ký, Paul Doumer kể lại: Năm 1897, Đà Nẵng hiện ra thật nghèo nàn với một hiện thực đáng buồn. Có ba hoặc bốn tòa nhà công, khoảng 12 ngôi nhà theo phong cách châu Âu, một ngôi làng đặc trưng miền Trung với những túp lều tranh tre. Tất cả như những dấu chấm trên biển cát bao la. Thành phố buồn. Không đường, không cây cối, không vườn, không bến sông. Chỉ có những cây keo và một vài bức tường sắp đổ!... Để đi từ sông ra bến tàu, người ta sử dụng ghe hoặc thuyền và phải đi qua một con kênh.
Trận đánh điên rồ
Ngay từ khi đến Đà Nẵng, Toàn quyền Paul Doumer có lẽ đã khảo sát rất kỹ cảng Tiên Sa và đến đồi Hài Cốt của liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã bỏ mình nửa thế kỷ trước khi tấn công Đà Nẵng. Ông cho rằng mù mờ về địa hình ven biển, liên quân (Pháp - Tây Ban Nha) đã chọn một vị trí đóng quân tệ hại đến mức không thể tệ hại hơn ở bán đảo Tiên Sa. Chiếm Đà Nẵng để tiến công ra Huế thật sự là một sự điên rồ. “Những người lính của Hoàng đế An Nam không ngu xuẩn đến độ thay đổi vị trí (đèo Hải Vân) mà ở đó họ không bị nguy hiểm gì và thời gian đang ủng hộ họ… Đơn vị liên quân bị tơi tả bởi những chứng bệnh nhiệt đới khủng khiếp. Mỗi ngày, quân triều đình lại thắng một trận mà không phải ra quân. Nghĩa trang mà chúng ta thấy đã đủ nói lên những tổn thất cả chúng ta” - Toàn quyền Paul Doumer nhấn mạnh.
Kỳ tới: Từ Tiên Sa đến EWEC
Bình luận (0)