Hà Nội, khi tôi đang tuổi học trò, tuy đã hoàn toàn đời sống "phe ta - dân chủ nhân dân" nhưng hình hài thời Pháp thuộc hầu như còn cả đấy. Cửa hiệu, hãng buôn, cao lâu, tửu quán… tất cả đã dẹp tiệm hoặc mậu dịch hóa nhưng cái mác "sở hữu tư nhân" vẫn thấy rõ do trước năm 1954, người ta hay đắp nổi tên cùng năm ra đời của hãng lên cổng hoặc mặt tiền tầng trên tòa nhà. Tư gia cũng vậy, năm sinh của ngôi nhà được đắp trên cổng. Nhiều nhất là các biệt thự, hãng buôn ra đời những năm 1930-1939 - thời 10 năm trước Thế chiến 2, kinh tế phát đạt; tiếp đến là các năm 1949, 1950, 1951 - khoảng giữa thời tạm chiếm.
Những ngôi nhà của thập niên 1920 không nhiều, trước đó nữa lại càng hiếm. Nhưng, rất lạ, dù được xây dựng tại những nơi rất xa khu phố Tây và rất sớm - các năm 1919, 1915, 1910, 1905, thậm chí 1903, vừa khi có cầu Long Biên - mà hầu hết đã là nhà gạch 2 tầng, khác hẳn kiểu nhà truyền thống của người Việt.
Ngôi nhà có con số 1887 đắp nổi trên cổng, tọa lạc đầu phố Nguyễn Thiệp (năm 1967 từng bị bom Mỹ đánh sập), theo nhà văn Hà Ân, là ngôi nhà kiểu Tây đầu tiên của người Hà Nội. Mà năm 1887 tức là chỉ 5 năm sau ngày quân Pháp hạ Hà Thành lần thứ hai.
Quá trình tiếp thu đời sống Tây phương đã khởi sự thật là sớm sủa. Duyên do là bởi người Việt mình một mặt có tinh thần dân tộc rất cao, luôn quyết liệt chống quân xâm lược, mặt khác lại không mắc tật bài ngoại. Tuy thực dân Pháp là kẻ thù xâm lược nhưng nước Pháp, người Pháp có gì hay thì người mình vẫn chuộng, vẫn xài. Nhà cửa, xe cộ, vật dụng, đường sá, cầu cống, đèn đóm, điện nước, nói chung là đời sống đô thị tân thời, chẳng phải hầu hết gốc gác từ Tây đó sao. Cả chữ cái vẫn viết hằng ngày rồi trang phục, đầu tóc..., đủ thứ.
Trước cuộc chiến tranh biên giới 1979, tôi sống ở nhà số 21 phố Hàng Cân, vốn là một cửa hiệu thực phẩm của người Hoa. Hiệu buôn cha truyền con nối này khai trương từ năm 1878 và tồn tại tới tận khi "đánh tư sản" 1958. Hậu duệ cuối cùng của chủ hiệu là bà Lìm, độc thân, vẫn sống ở 21 Hàng Cân tới năm 1978 thì hồi hương. Bà vẫn còn giữ sổ sách có từ thuở ban đầu của cửa hiệu làm kỷ vật. Chúng đã ố vàng và toàn chữ Nho nhưng bà đọc được, dịch cho tôi. Năm cửa hiệu khai trương là Mậu Dần thời Tự Đức, hàng họ gồm bột mì, rượu nho, rượu ngải, dầu ô liu, pho mai, thuốc lá sợi, thuốc lá nhai, đường kính và cà phê, toàn đồ Tây!
Sau năm 1874, với Hòa ước Giáp Tuất, Hà thành và toàn bộ Bắc Kỳ vẫn là của triều đình Việt Nam, Tây chỉ có một phái bộ vài trăm người bị cô lập trong nhượng địa Đồn Thủy. Vậy nên, tôi nghĩ các món hàng của cửa hiệu Hàng Cân (thời đó tên là Hàng Sơn) được bán chủ yếu cho người Việt, chứ Tây đâu ra.
Nghĩa là hồi đó, nửa cuối những năm 1870, dù đang trong tình trạng nửa chiến tranh với Pháp, vẫn có không ít người Hà Nội xài đồ Pháp. Nguồn hàng của các cửa hiệu buôn đồ Pháp chắc là từ Nam Kỳ thuộc địa của Pháp tuồn ra. Đối địch thì đối địch, vẫn có giao thương. Triều đình bế quan tỏa cảng, dân vẫn có cách buôn bán qua lại. Chiến tranh hay hòa bình, người Hà Nội vẫn gắng sống sao cho dễ chịu nhất có thế, vẫn tình tang, một trà một rượu…
Riêng về cà phê, theo như tôi thấy ở sổ sách của cửa hiệu xưa, thứ đồ uống đặc Tây này đã đến Hà Nội chí ít là từ năm 1878. Vì người ta mua cà phê không chỉ để pha uống tại nhà nên quán cà phê của người Hà Nội hẳn là đã xuất hiện trên các phố từ lâu lắm rồi, chí ít là đầu thế kỷ XX, như ở ngõ Cấm Chỉ.
Cho tới năm 1969, tôi vẫn còn thấy trên cổng một ngôi nhà ở góc Cấm Chỉ - Kỳ Đồng con số 1906 và dòng chữ Café de Paris. Số và chữ khá to, được đắp nổi nhưng đã phủ rêu và ẩn dưới mái tôn nên khi cha tôi chỉ thì tôi mới thấy. Tuy tên quán chữ Tây, lại còn Paris nữa nhưng ngõ Cấm Chỉ vào năm 1906 thì Tây nào lai vãng nên chắc hẳn đó là quán cà phê của người Việt, mà là người Việt tầng lớp bình dân.
***
Có thể không phải là quán cà phê đầu tiên ở Hà Nội song Café de Paris, 1906, ở ngõ Cấm Chỉ vẫn đáng được coi là quán cao niên hạng nhất nhì. Tới năm 1969, đây vẫn là quán cà phê dù là "cà phê chui", vô danh. Mất tên nhưng vẫn tồn tại nên quán vẫn còn tuổi. Mùa thu 1969, khi tôi lần đầu vào đó, quán cà phê này đã 63 năm tuổi.
Cà phê hồi ấy là thứ đồ uống bị cấm nên phải "chui". Những năm 1960-1970, chỉ thứ gì mậu dịch phân phối mới là chính danh, còn của tư nhân tư hữu bán ra thì ít nhiều đều là sự ăn uống bất chính. Lúc bị cấm ráo riết, khi bị cấm vừa chừng, thậm chí lơi lỏng nhưng dù gì thì quán cà phê vẫn cần náu danh ẩn mình mới tồn tại nổi. May thay, cà phê Hà Nội chỉ gặp hạn vào hồi đó thôi.
Lớn lên trong thời buổi đó nên cũng dễ hiểu là năm 1969, dù đã 17 tuổi mà tôi chưa từng nếm giọt cà phê nào. Vào quán Cấm Chỉ bữa đó là lần đầu trong đời tôi biết quán cà phê. Tôi đi cùng cha vào buổi chiều, ngay trước ngày nhập ngũ. Bây giờ Cấm Chỉ là khu ẩm thực la liệt cao lâu với hàng quán nhưng ngày đó thì vắng ngắt lại chật hẹp, toàn nhà một tầng lụp xụp, tối tăm, vá chằng vá đụp, còn tệ hơn cả nhà cấp bốn thời nay; chỉ mỗi "Café de Paris" là nhà 2 tầng nhưng cũng rất xập xệ, rêu mốc, tróc lở.
Ở cửa trước quán bày cái kệ bán dưa cà. Khi cha tôi chào, bà cụ bán dưa cà nhìn thấy rõ là khách quen mới đẩy hé cánh cửa ra. Chúng tôi lẳng lặng đi ngang tầng trệt, vòng ra sân sau, leo cầu thang, lên áp mái. Cà phê trên đó. Một khoang gác ọp ẹp. Dăm bộ bàn ghế thấp tịt. Khách khứa chỉ là những cái bóng. Có tiếng trò chuyện nhưng rất khẽ. Tuy nhiên, bầu không khí thì nồng ấm và thơm lựng, ngòn ngọt, đầm đậm - một thứ hương vị chẳng lời nào diễn tả được.
Người Hà Nội hồi đó chỉ uống cà phê đen - bột được rang xay từ hạt cà phê chè buôn lậu trong Nghệ An ra - đậm đặc, pha phin, chầm chậm, rỏ từng giọt. Không có thứ cà phê được pha sẵn cả nồi rồi để đó, đợi khi có khách gọi mới đun nóng lên như nhiều quán thời nay. Cũng không cà phê sữa, cà phê đá. Khách của quán không ngồi hướng mặt ra đường và trò chuyện rôm rả như thời nay mà ngồi xây lưng ra cửa, gần như úp mặt vào tường, trò chuyện rì rầm, náu mình.
Bữa đó - khi trận mạc chờ tôi ngay hôm sau, cha đưa tôi tới nơi "trốn đời" hiếm hoi ấy của người Hà Nội, nhấm nháp những giọt đắng ngắt và nghiền ngẫm ngậm ngùi bao nhiêu chuyện đời chưa từng bao giờ ông nói với tôi, cũng có thể chưa từng nói với ai. Cạn 2 tách đầu, cha tôi gọi thêm 2 tách nữa. Bao Tam Đảo đã hết, ông bóc bao khác đưa mời tôi, xòe diêm châm lửa.
Cha tôi rất nghiêm khắc. Trước đấy, đừng nói bia bọt, cả nước trà ông cũng không cho phép tôi, nói gì cà phê với thuốc lá. Nhưng vì ngày mai tôi là người lính, lên đường ra trận nên với cha tôi, bắt đầu từ đây tôi là người lớn rồi, thậm chí còn hơn thế, là người bạn, người để ông có thể tâm tình. Những tâm tình kín bưng của thời gian khổ chiến tranh…
Bây giờ, dù ham nghe những chuyện liên quan đến cà phê nhưng tôi ít uống, nhất là ít ra quán. Bởi lẽ với tôi, những giọt cà phê quá nặng hoài niệm, quá nặng nỗi buồn nhớ, về cha mình, về Hà Nội thuở xưa, cả về thời trai trẻ của bản thân.
Bình luận (0)