Tôi không muốn đánh nhau với chiếc cối xay gió nên không bao giờ có ý nghĩ mình sẽ viết văn bia cho truyền thống đấu tranh cách mạng của Sài Gòn - Gia Định, bởi tôi biết đó là một việc khó, rất khó. Nhưng một đêm thức dậy sớm, tôi cứ thao thức... Kỳ lạ thay, dường như những người đã khuất mà tôi được biết trong lịch sử một vùng đất như đang sống dậy, hiển hiện trước mắt.
Đại tá - Anh hùng Lực lượng vũ trang Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu, bên trái) và anh Phan Kim Thạch. (Ảnh chụp năm 2005 tại nhà riêng ông Tư Chu)
Tôi choàng dậy, ngồi vào bàn viết. Hình ảnh những người phụ nữ đẹp ở Sài Gòn luôn là niềm rung cảm mãnh liệt, thôi thúc tôi viết những dòng tri ân nhan sắc: "Có nơi nào như ở Sài Gòn/ Chúng ta mắc nợ những người con gái đẹp/ Có gì quý bằng nhan sắc và nhân phẩm/ Khi Tổ quốc cần những người con gái biết hy sinh..." .
Sinh thời, đại tá - Anh hùng biệt động Nguyễn Đức Hùng (Tư Chu) cứ day dứt hoài với những chiến sĩ - hiệp sĩ trong đường dây biệt động của ông. Họ là ai? Đó là bà Bùi Thị Lý, người từng phiêu bạt từ miền Bắc sang Lào rồi vào Nam, làm đồn điền, sống hông đình, hè chợ, hơn 20 năm mới sắm được căn nhà ở chợ Vườn Chuối. Vậy mà bà sẵn sàng rời bỏ, mua căn nhà trên đường Nguyễn Huỳnh Đức (nay là đường Huỳnh Văn Bánh, quận Phú Nhuận) làm kho vũ khí cho biệt động Sài Gòn đánh vào Bộ Tổng Tham mưu địch. Với những bội rau tần tảo, bà kiên cường vượt qua những cực hình tra tấn của địch, giữ vững bí mật cơ sở.
Đó là chị Phan Thị Thúy với nỗi oan "bị đuổi khỏi nhà vì làm vợ bé một sĩ quan ngụy"; là chị Võ Thị Sang, từ Đà Lạt xuống Sài Gòn kiếm sống, đã làm theo lời trăng trối của chồng, tiếp tục giữ kho vũ khí để giao lại cho người "có nửa đồng bạc cắt đôi", dùng đánh vào Bộ Tổng Tham mưu địch…
Đó là chị Trần Thị Út, vợ Anh hùng Nguyễn Phú Cương, nhiều năm liền sống trên "đống lửa" để đêm mùng một Tết tiễn chồng ra trận. Đó là chị Nguyễn Thị Hảo, vợ liệt sĩ Nguyễn Tấn Quốc, cùng chồng trồng rau muống, bền bỉ xây dựng hầm vũ khí đánh vào Dinh Độc Lập. Đó là chị Đặng Thị Thiệp, vợ thật mà phải đóng vai vợ bé để tạo thế hợp pháp cho chồng - nhà tư sản Mai Hồng Quế - từ Bắc phiêu bạt vào Nam, xây hầm vũ khí ngay trước mặt kẻ thù…
Những phận đời nổi trôi chìm khuất ấy đã làm nên ẩn số của lòng yêu nước mãnh liệt của người Sài Gòn. Cho đến phút cuối đời, ông Tư Chu vẫn còn day dứt trước những hy sinh thầm lặng của vợ chồng chiến sĩ biệt động Nguyễn Văn Thông - Huỳnh Thị Phát. Họ đã dâng hiến cuộc đời cho chiến tích của Biệt động Sài Gòn, bằng những việc làm thầm lặng của tổ trinh sát công khai. Tất cả tài liệu, tranh ảnh phục vụ các trận đánh lớn của biệt động trong lòng Sài Gòn đều qua sự sưu tầm, chuẩn bị của tổ này.
Ảnh: NGUYỄN THANH BÌNH
Là người chỉ huy, ông Tư Chu nắm rõ: "Đồng chí Nguyễn Văn Thông là một người hào phóng, tốt bụng ở vùng chợ Nancy nên có nhiều người yêu mến, nhiều bạn bè thân thiết. Nhiều người được đồng chí vận động vào đội ngũ cách mạng, nhiều cơ sở được đồng chí xây dựng…".
Bên cạnh người chiến sĩ trinh sát nội thành ấy là người vợ tảo tần, bản lĩnh. Với nghề y tá và chăm sóc sắc đẹp, chị Phát đã tiếp cận, lấy được nhiều tin tức quan trọng, đặc biệt là từ các vũ nữ hạng sang, vợ bé của tướng lĩnh. Cấp trên cần tin tức gì về chủ trương của cảnh sát Sài Gòn, chị chỉ cần xách túi đồ nghề đến nhà cô vũ nữ vốn là người tình của tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tổng Giám đốc Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. Lúc về nhà, chị đã lấy được những tin sốt dẻo.
Hai chiến sĩ thầm lặng ấy lần lượt hy sinh. Mãi sau ngày hòa bình, ông Tư Chu mới biết thêm nhiều chi tiết về họ: Sau Mậu Thân 1968, anh Thông bị sát hại ở nhà lao Thủ Đức, còn chị Phát bị địch giết tại ngã ba Tân Hiệp, Tiền Giang.
Ẩn số người Sài Gòn chứa đựng ngay trong những công tử hào hoa, xuất thân trong các gia đình "danh gia vọng tộc" của chính quyền Sài Gòn. Tôi rất ấn tượng về những câu chuyện kể của ông Tư Chu về các "hiệp sĩ" Sài Gòn. Trong đó, anh Phan Kim Thạch là một sĩ quan phiên dịch cho Nam Hàn nhưng sẵn sàng làm giao liên đưa hai "ông trùm" biệt động là Tư Chu và Ba Thắng (ông Võ Văn Thạnh, nguyên Chính ủy Phân khu 6) thoát khỏi Sài Gòn sau đêm Mậu Thân 1968.
Những ẩn số ấy thật đáng cho các thế hệ sau suy ngẫm. Có tài xế tuy nghiện thuốc phiện nhưng tràn đầy lòng yêu nước, sẵn sàng lái xe vượt qua hiểm nguy, cái chết; vì lòng yêu nước và mong muốn được Đảng tin cậy, ông đã gồng mình, vật vã cai nghiện. Có sĩ quan hoạt động đơn tuyến, vì đại cuộc đã tự móc mắt mình để qua mặt kẻ thù…
Ở Sài Gòn có nhà tư sản dân tộc Bùi Duy Cận, người sáng lập và là chủ nhân Hãng sơn Bạch Tuyết, đã giúp hàng ngàn lượng vàng cho cách mạng. Sau ngày đất nước thống nhất, khi sang Pháp chữa bệnh, ông đã ủy nhiệm cho người cháu hiến toàn bộ và cùng hướng dẫn cách sản xuất sơn Bạch Tuyết cho cách mạng.
Đó là câu chuyện "gia đình biệt động" của má Vũ Thị Lượng. Với chiếc xe ba gác chở rác rưởi, xà bần đi khắp Sài Gòn, má đẩy sau và người con tật nguyền đằng trước, nhiều vũ khí đã được chuyển tận tay các chiến sĩ cách mạng.
Ông Tư Chu cũng mãi day dứt về sự hy sinh thầm lặng của anh Lê Huấn (Hai Hồ) - con trai một tướng lĩnh Sài Gòn cao cấp, quê gốc Quảng Nam - người hoạt động đơn tuyến trong lòng địch. Trong vai một sĩ quan quân đội Cộng hòa, anh Hai Hồ đã lái xe đưa "ông trùm" Biệt động Sài Gòn vào thị sát Bộ Tổng Tham mưu địch, chuẩn bị cho Mậu Thân 1968.
Tôi tự hỏi điều gì đã giúp những con người thầm lặng làm nên bản anh hùng ca của Sài Gòn? Và rồi, tôi - một cô gái nhỏ nhoi từ Bến Tre lên Sài Gòn lập thân, lập nghiệp - nghiệm ra rằng chính tính cách thân thiện, hào hiệp, bao dung, công bằng, chí thú làm ăn của người Sài Gòn đã cưu mang những anh hùng, nuôi nấng những nhân tố anh hùng, những hạt giống đỏ, những khát vọng, bứt phá, vượt rào.
Tôi còn phát hiện một điều, đội quân biệt động của ông Tư Chu đã biết "bình thường hóa" trong sinh hoạt đời thường, lẫn vào người Sài Gòn để làm nên những kỳ tích. "Ông trùm" biệt động này từng nói: "Chỉ ở Sài Gòn mới có Biệt động Sài Gòn".
Chạm tay vào những phận đời, những giọt nước mắt của những con người bình thường mà phi thường, tôi dường như được tiếp sức để viết: "Sài Gòn đêm Mậu Thân không ngủ/ Những người lính biệt động "đánh nhanh rút nhanh" vẫn kiên trì chờ đại quân, dù biết mình phải chết!/ Đó đây những góc phố, con đường các anh chị còn nằm lại/ Nhiều người lạc đường, "lội" sông đã không về/ Những người lính cảm tử được giấu trên máng xối, tường hai lớp, vách hai ngăn…/ Những bà mẹ giấu con ngay trong tấm lòng mình/ Sài Gòn rưng rưng hai chữ lòng dân!".
Phải, đó đây những góc phố, con đường mỗi ngày ta qua, xương máu những người lính năm xưa còn gửi lại. Càng tiếp cận những trang lịch sử được làm nên bằng những cuộc đời thầm lặng, tôi càng cảm nhận vẻ đẹp của thành phố mình đang sống một cách máu thịt, sâu thẳm. Với tôi, bản thân Sài Gòn đã là một kho báu di tích lịch sử khổng lồ, chạm vào đâu cũng thấy mình đang mắc nợ.
Bình luận (0)