xem thêm
An Giang
Bình Dương
Bình Phước
Bình Thuận
Bình Định
Bạc Liêu
icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Nếp nhà từ bà ngoại

LÊ MINH QUỐC

Người định hướng trước nhất cho con cháu trong nhà y, không ai khác chính là bà ngoại - người gốc ở làng Phước Ninh, Đà Nẵng

1. Bà vốn mộ đạo, tự học đánh vần, tập đọc để đọc kinh Phật và trước lúc ngủ bà luôn niệm: "A di đà Phật cứu khổ cứu nạn…". Ngày rằm thường dẫn cháu lên chùa chiêm bái đức Phật, y nhớ mãi hình ảnh mà hằng ngày ít thấy là dịp ấy, bao giờ bà cũng mặc áo dài màu lam, chân đi đôi guốc mộc đã mòn vẹt. Và mẹ y đã ảnh hưởng từ bà rất nhiều trong cách dạy con. Những tưởng đó phải là những "triết lý" to tát, lớn lao, phải thông suốt kinh sử mới có thể thực hiện nổi.

Không, những bài học khai tâm ấy nhẹ nhàng và dễ hiểu xiết bao. Những đêm nằm ngủ bên bà, bao giờ y cũng nghe bà dặn dò đừng nên nói những câu gợi lên điều ác, hắc ám, chết chóc… Không khéo nó vận vào người thì khốn. Thuở bé, nghe bà dạy thế, chỉ mỉm cười, chẳng hiểu lắm đâu. Mãi sau này, lúc đọc "Thả một bè lau", y mới giật mình cảm nhận về một điều thiền sư Thích Nhất Hạnh giải thích, không khác gì lời bà ngoại đã dạy.

Nếp nhà - giềng mối ấy, môi trường ấy quan trọng biết dường nào.

Thiền sư viết rằng: "Ngày xưa, khi chị Cầm của tôi đọc "Truyện Kiều" cho mẹ tôi nghe, ngang câu: "Phận sao phận bạc như vôi/ Ðã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng" mẹ tôi nói: "Con đừng đọc như vậy, phải đọc là "Phấn sao phấn bạc như vôi". Tôi nói: "Ðâu có! Trong sách để "phận" rõ ràng mà, tại sao lại đọc "phấn?". Mẹ tôi nói: "Ðúng rồi. Viết là "phận" nhưng nếu mình đọc "Phận sao phận bạc như vôi" thì mình cũng đang than thở như Kiều vậy. Mình sẽ vận nó vào trong người. Rất nguy hiểm. Thành ra phải đọc là "phấn" (để chứng tỏ là mình khác). Lúc đó, mấy chị em mới hiểu là trong văn hóa của mình có truyền thống tự bảo hộ như vậy. Không phải chỉ trong đạo Phật người ta mới cẩn thận trong việc tưới tẩm hạt giống, chính trong văn hóa Việt Nam cũng có truyền thống kiêng cữ.

Nếp văn hóa truyền thống ấy, phải từ sự học mà ra, tu tâm dưỡng tính mà có? Không sai. Nhưng xin thưa rằng điều quan trọng hơn cả, theo y vẫn chính từ nếp nhà. Giềng mối ấy, môi trường ấy quan trọng biết dường nào. Điều đó giải thích vì sao có những người ăn học đàng hoàng, bằng cấp đầy mình, nhà cao cửa rộng nhưng phép ứng xử, đối nhân xử thế lại kém cỏi thế kia? Cũng do từ nếp nhà mà ra.

Nếp nhà từ bà ngoại - Ảnh 2.

Ảnh: PHÙNG ANH TUẤN

2. Có lần bà ngoại thủ thỉ: "Những ai đã giúp mình dù ít, dù nhiều trong quá khứ thì đừng quên ơn họ". Rồi bà ngâm nga: "Trả ơn cái cối, cái chày/ Nửa khuya giã gạo có mày có tao". Y hiểu, cái chày, cái cối kia không còn là vật vô tri vô giác, nó đã là người bạn của những lúc "tối lửa tắt đèn" có nhau.

Rồi có lần bà kể ngày xưa ở Quảng Nam, chiều 30 Tết chuồng trâu, bò được dọn sạch sẽ và chúng được nghỉ xả hơi. Qua ngày mùng 4, chúng được đưa ra đồng với cái lễ vui vẻ có cả bánh tét, bánh chưng hẳn hòi. Sau khi khấn vái, người ta dán giấy vàng mã lên sừng trâu bò, con nghé thì được dán giữa trán - như lời cầu chúc cho chúng luôn khỏe mạnh, không ốm đau, không trở chứng xao nhãng công việc. Cúng xong, bánh trái ấy được phân phát cho trẻ mục đồng. Ấy cũng là một cách bày tỏ lòng biết ơn với gia súc đã quanh năm cùng gắn bó "Trên đồng cạn dưới đồng sâu/ Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa".

Còn nhớ, sau khi ba y đã đến một nơi mà trước đó cụ Phan Châu Trinh từng nhắn nhủ: "Cả thảy anh em đừng bực bội/ Chẳng gan chưa dễ tới Côn Lôn", bà ngoại xuống nhà ở chung. Thương con gái làm dâu mà quê chồng xa tít ngoài Bắc, đất nước chia đôi, gặp lúc chồng hoạn nạn, tai ách thì con mình hỏi han, tâm sự cùng ai? Ngược lại, không có cha mẹ chồng bên cạnh, chỗ dựa của mẹ vẫn là ông bà ngoại. Mọi vui buồn của mẹ con đều san sẻ cho nhau. Lúc gần đất xa trời, bước vào độ tuổi "cổ lai hy", thỉnh thoảng mẹ y thường bảo: "Ở trong nhà mẹ thương bà ngoại nhất. Bà ngoại còn là bạn của mẹ".

Vậy, giữa hai mẹ con phải tâm đầu ý hợp nên mới có thể tạo duyên tri âm, tri kỷ.

Một trong những câu chuyện mẹ y hay kể lại vẫn là "ngày xửa, ngày xưa…". Ngày khói lửa binh đao của cuộc kháng chiến Chín năm, gia đình còn nghèo, sống ở vùng tự do Cây Sanh (Tam Kỳ). Ông ngoại làm ăn xa thỉnh thoảng mới đem tiền về nhà nuôi vợ con. Đồng lương của một người nấu bếp trên núi Bà Nà bốn mùa sương giăng gió buốt, heo hút non xanh có là bao? Ông về là vui cửa vui nhà, có đồng quà tấm bánh, có đồng ra đồng vào nhưng cũng phải tằn tiện lắm mới đủ ăn. Sợ nhất, lo lắng nhất vẫn là lúc ông về lại dẫn theo dăm ba người bạn cùng làng; hoặc có lúc người cùng làng từ Đại Lộc (Quảng Nam) nhân việc đó từ quê ra, tạt qua ghé thăm nhà, ở lại chơi vài ngày.

Cụm từ "người cùng làng/ người cùng quê", bây giờ đọc lên nghe nhẹ hều, thậm chí chẳng mấy bận tâm. Cùng lắm một câu chào hỏi, quý lắm, kéo nhau ra quán, lật cái thực đơn, gọi vài ba chai bia là xong.

Nhưng ngày xưa lại khác. Khác lắm. Dù đói, dù nghèo thì trong nhà người mẹ/ vợ phải đãi đằng chu đáo. Thuở ấy, nhà ông bà ngoại y nghèo lắm, ăn còn bữa đói bữa no, lấy gì đãi khách? Nếu cần, nhịn miệng đãi khách. Nếu cần, giật nợ đầu này, vay nóng đầu kia để rủng rẻng ít tiền lo cơm nước chu đáo để cha/chồng tiếp khách.

Ngày xưa, một trong những điều khoái trá nhất của ông Kim Thánh Thán vẫn là: "Một ông bạn cách biệt mười năm, chiều tối bỗng tới nhà. Mở cửa, vái nhau xong, chưa kịp hỏi han đi đường thủy hay đường bộ, cũng chưa kịp mời bạn ngồi ghế hay ở giường, vội vào trong bếp, hỏi nhỏ vợ: "Bà có sẵn đấu rượu như bà Đông Pha không?". Vợ vui vẻ gỡ cây trâm vàng đem đổi rượu. Tính ra đãi bạn được ba ngày. Chẳng cũng khoái ư?". Bà ngoại y nào có cái trâm vàng đem đổi rượu. Nhưng rồi dù gì thì gì cũng phải đãi đằng "người cùng làng/ người cùng quê" chu đáo, thịnh soạn mà ngoài mặt cứ tỉnh bơ như không.

Ơ hay, sao lại thế, cứ nói thật với khách có phải thiệt lòng hơn không? Không bao giờ. Trong quan niệm của người đàn bà Việt: "Nhịn miệng tiếp khách đường xa/ Cũng như của gửi chồng ta đi đường". Tự nhủ để rồi rối lòng, lo lắng tính toán từng ngày, chỉ khi nào khách rời nhà, mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Ngoài lý do trên, còn là suy nghĩ này, nếu mình tiếp đón không khéo, biết đâu khi về làng họ than thở, trách móc với bà con xóm giềng thì hóa ra mình ăn ở chẳng ra gì? Vậy đó, dù gì cũng phải bấm bụng mà chịu. Mẹ y kể đó vẫn chính là những ngày bà ngoại lo sốt vó, có đêm ngủ không an giấc... Nói đi cũng phải nói lại. Người cùng làng ấy, nếu có dịp mà không ghé nhà thăm nhau, họ lại sợ người cùng quê hay tin sẽ trách móc: "Bộ mi chê nhà tau nghèo không lo được bữa ăn hay sao?".

3. Được ở chung nhà với mẹ, nghe những câu chuyện kể ấy, với y cực kỳ lý thú, bởi lẽ cũng là một gợi mở để tìm hiểu về phép ứng xử của người Việt ngày trước. Mà đâu chỉ có thể, phép ứng xử ấy lại lưu truyền qua đời mẹ, đến đời con, qua đời cháu… Âu cũng là một sự gắn kết của tình làng nghĩa xóm, bà con láng giềng trong dòng tộc. Và gì nữa? Có thể nói sự nhạy cảm trong tâm hồn y nếu có được ít nhiều cũng từ bà ngoại - tri kỷ, tri âm của mẹ.

Thật khó lý giải vì sao dù không biết chữ nhưng bà lại thuộc, lại nhớ nhiều đồng dao, ca dao, tục ngữ đến vậy? Do ảnh hưởng từ bà ru cháu, mẹ ru con? Rồi mầm lửa nhân ái này lại được tiếp tục nuôi dưỡng qua nhiều thế hệ? Đúng thế. Chẳng phải ở làng quê nước Nam ta, đã có những bà mẹ một chữ cắn đôi cũng không biết nhưng lại thuộc làu làu lời ăn tiếng nói của cha ông đấy sao?

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo