icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

TRỌN ĐỜI VÌ SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ (*): Thép Mới - "cây bút thép"

NGỌC DUNG

Di sản nhà báo Thép Mới để lại không chỉ là các tác phẩm có giá trị mà còn là một phong cách làm báo mẫu mực: gần dân, hiểu dân, viết vì dân và luôn vì sự thật

Nhà báo Thép Mới là cây bút chính luận sắc sảo, giàu cảm xúc, sống và viết như một chiến sĩ. Với phong cách không trộn lẫn, ông để lại dấu ấn sâu đậm suốt nhiều thập niên, trở thành biểu tượng tài hoa của nền báo chí cách mạng.

"Nhà báo của hiện trường"

Nhà báo Thép Mới tên thật là Hà Văn Lộc, sinh ngày 15-2-1925; quê quán quận Tây Hồ, TP Hà Nội. Ông mất ngày 28-8-1991 tại TP HCM, thọ 66 tuổi.

Ông bước vào nghề báo từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, thuộc lớp phóng viên - chiến sĩ đi đầu trong dòng báo chí cách mạng Việt Nam. Ông từng làm Báo Cứu Quốc, rồi trở thành một trong những cây bút chủ lực của Báo Nhân Dân từ số đầu tiên ra mắt năm 1951. Thép Mới là bút danh nhưng cũng là khí chất, là bản lĩnh mà người làm báo này thể hiện suốt cuộc đời cầm bút. Văn phong của ông vừa chắc, gãy gọn vừa cuốn hút, tạo cảm xúc mạnh cho người đọc.

Nhà báo Thép Mới tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1938, khi gia nhập phong trào Thanh niên Dân chủ Đông Dương. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông làm báo và trở thành cây bút chủ lực của các tờ báo: Cờ Giải Phóng, Sự Thật, Cứu Quốc Thủ Đô. Năm 1951, Báo Nhân Dân được thành lập, ông là một trong những thành viên đầu tiên của Ban Biên tập. Ông từng là đặc phái viên Báo Nhân Dân ở chiến trường miền Nam từ năm 1964, sau đó làm Tổng Biên tập Báo Giải Phóng (1968 - 1971).

TRỌN ĐỜI VÌ SỰ NGHIỆP BÁO CHÍ (*): Thép Mới - "cây bút thép" - Ảnh 1.

Nhà báo Thép Mới (bìa phải) cùng các nhà văn, nhà báo chứng kiến cảnh Bệnh viện Bạch Mai (TP Hà Nội) bị bom Mỹ tàn phá năm 1972. Ảnh: TƯ LIỆU

Trong cuộc đời làm báo, ông đi nhiều chiến trường, đến những nơi chiến đấu ác liệt, lăn lộn cùng đồng bào, đồng chí, vừa làm báo vừa chiến đấu. Ông viết nhiều bài phóng sự, chính luận sắc sảo, phản ánh tinh thần chiến đấu bảo vệ thủ đô và đất nước của quân - dân ta như: "Những ngày đầu tháng Chạp nóng bỏng", "Hà Nội cầm súng chiến đấu", "Ngày đầu Hà Nội giải phóng"...

Năm 1972, với vai trò Phó Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, ông khởi xướng tên gọi "Điện Biên Phủ trên không", chỉ đạo phóng viên viết bài để cổ vũ tinh thần kháng chiến trong những ngày Hà Nội hứng chịu những "cơn mưa bom B-52". Ông cũng viết nhiều bài về cuộc chiến đấu, trong đó có bài xã luận nổi tiếng "Hà Nội, Thủ đô của phẩm giá con người".

Có người gọi nhà báo Thép Mới là "nhà báo của hiện trường", bởi suốt đời ông gần như không rời thực tế. Ông không thích làm lãnh đạo, luôn chọn xuống cơ sở, tiếp xúc với công nhân, nông dân, bộ đội, thanh niên, cán bộ để hiểu, để viết. Những bài phóng sự như "Sầm Sơn năm ấy", "Mùa xuân lại nhìn từ cơ sở"... là ví dụ tiêu biểu cho cách làm báo từ thực tiễn và vì nhân dân của ông.

Với những đóng góp to lớn, nhà báo Thép Mới đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý như: Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy chương "Vì sự nghiệp báo chí Việt Nam"…

Di sản của người cầm bút

Nhiều nhà báo kỳ cựu và các nhà nghiên cứu báo chí đã có những đánh giá sâu sắc về nhà báo Thép Mới. Tại lễ đặt tên phố Thép Mới ở quận Long Biên, TP Hà Nội ngày 18-3-2014, nhà báo Thuận Hữu, Tổng Biên tập Báo Nhân Dân thời điểm đó, nói rằng việc Hà Nội vinh danh tên ông là niềm tự hào của Báo Nhân Dân và giới báo chí cả nước. Đây cũng là lời nhắc nhở các thế hệ làm báo hôm nay phải tiếp nối xứng đáng truyền thống vẻ vang của báo chí cách mạng, mà Thép Mới là một trong những tấm gương tiêu biểu.

Trong một bài viết về nhà báo Thép Mới, GS-TS - nhà báo Tạ Ngọc Tấn - Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - nhận xét trong lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam, Thép Mới là một nhà báo nổi tiếng, tâm huyết, tài hoa và phong cách đặc biệt, không lẫn vào đâu được. Ông là hiện thân tiêu biểu của hình mẫu nhà báo - chiến sĩ…

Lý tưởng sống trong sáng, khát vọng cống hiến của tuổi trẻ… đã thôi thúc ông hăm hở bước vào con đường rộng lớn của cuộc đời mình với tư cách một người chiến sĩ chiến đấu bằng ngòi bút. Suốt hơn 20 năm, từ sau Hiệp định Geneva đến ngày đất nước thống nhất, ông luôn xông pha tuyến đầu, đồng hành cùng công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với ngòi bút không ngơi nghỉ, đầy cảm xúc và nhiệt huyết.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông không rời cuộc chiến. Vẫn với cây bút làm vũ khí, nhà báo Thép Mới tiếp tục xông pha trên mặt trận mới - hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Ông tự nguyện ở lại TP HCM để "hòa mình vào cuộc sống, xông tới nơi có sự kiện, có những con người điển hình". Trong dòng chảy thực tiễn đó, ông vừa quan sát vừa trăn trở, vừa reo vui với từng dấu hiệu chuyển mình ở nhà máy, xí nghiệp, địa phương. Ông không chỉ là người kể chuyện lịch sử mà còn là chứng nhân và người thắp lên niềm tin vào con đường đi lên của đất nước.

Điều khiến nhiều thế hệ nhà báo trẻ ngưỡng mộ ông nhất có lẽ là khả năng dung hòa giữa lý tưởng cách mạng với sự nhạy cảm xã hội, giữa kỹ năng nghề với cảm xúc đời thường. Ông không phải người viết để minh họa đường lối mà luôn cố gắng làm sáng rõ những giá trị nhân văn nằm trong từng dòng tin, bài phản ánh.

Di sản báo chí mà nhà báo Thép Mới để lại không chỉ là những tác phẩm có giá trị mà còn là một phong cách làm báo mẫu mực: gần dân, hiểu dân, viết vì dân và luôn vì sự thật. Đó cũng là lý do tên ông vẫn được nhắc lại với lòng kính trọng, giữa một thời báo chí đang đứng trước nhiều thử thách mới. 

Cây bút văn học xuất sắc

Thép Mới không chỉ là nhà báo tài năng mà còn là cây bút văn học xuất sắc. Ông để lại nhiều bút ký, tác phẩm giá trị như: "Cây tre Việt Nam" (thuyết minh phim, 1958), "Hiên ngang Cuba" (bút ký, 1962), "Nguyễn Ái Quốc đến Lê-nin" (thuyết minh phim, 1980), "Ðiện Biên Phủ - một danh từ Việt Nam" (bút ký, 1965), "Trường Sơn hùng tráng" (bút ký, 1967), "Ðường về Tổ quốc" (thuyết minh phim, 1981)…

Ông còn dịch nhiều tác phẩm kinh điển như: "Thép đã tôi thế đấy", "Viết dưới giá treo cổ". Di sản lớn nhất là 2 tuyển tập đồ sộ: "Cây tre Việt Nam" (517 bài, nhiều bài vào sách giáo khoa) và "Sáng đỉnh Trường Sơn" (gần 700 bài), vừa giàu tư liệu lịch sử vừa đậm chất ký - chính luận giàu cảm xúc và tư duy sâu sắc.

(Còn tiếp)

(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 12-6

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo