Ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) và robot đang trở thành xu hướng rõ nét của doanh nghiệp (DN) Việt Nam, giúp giảm chi phí, nâng cao chất lượng và tăng khả năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tối ưu vận hành, giảm chi phí
Công ty CP Kho lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) vừa khánh thành kho lạnh thông minh tại tỉnh Tây Ninh. Đây là một trong những kho lạnh tự động hóa hoàn toàn lớn nhất Đông Nam Á, với 110.000 kệ hàng (pallet), diện tích sàn kho 18.000 m2.

Công nhân điều khiển dây chuyền tự động hoá tại Công ty TNHH Lập Phúc (phường Phú Thuận, TP HCM) .Ảnh: HUỲNH NHƯ
Theo ông Nguyễn Hoàng Hải, Phó Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc NECS, toàn bộ quy trình từ đặt chỗ, nhập - xuất hàng, theo dõi tồn kho, quản lý nhiệt độ đến truy xuất lịch sử từng lô hàng đều được vận hành trên nền tảng số thống nhất, tích hợp các công nghệ IoT và AI. Việc số hóa không chỉ giúp tối ưu vận hành, giảm khoảng 30% chi phí so với kho truyền thống, mà còn bảo đảm kiểm soát nhiệt độ âm sâu ổn định, nâng cao chất lượng bảo quản và gia tăng niềm tin của khách hàng quốc tế. Trên nền tảng này, khách hàng có thể theo dõi lô hàng theo thời gian thực và kiểm soát toàn bộ hành trình logistics, từ kho lạnh, kho ngoại quan, kho phân phối cho đến cảng biển quốc tế. Cách tiếp cận đồng bộ này góp phần nâng cao tính minh bạch, kết nối liền mạch các khâu trong chuỗi cung ứng và từng bước nâng tầm năng lực logistics của Việt Nam. "Với việc số hóa quy trình, hệ thống quản lý số còn tạo ra sự khác biệt trên thị trường so với các kho khác đó là hợp tác với các ngân hàng triển khai mô hình hỗ trợ tài chính cho DN (quản lý hàng hóa cầm cố), cho phép DN dùng chính lô hàng trong kho làm tài sản bảo đảm. Hệ thống giúp minh bạch dữ liệu, kết nối trực tiếp với ngân hàng và giảm rủi ro, từ đó đẩy nhanh giải ngân và duy trì sản xuất" - đại diện NECS chia sẻ. Mô hình kho lạnh thông minh đã thu hút nhiều đối tác nước ngoài từ Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ… chọn Việt Nam làm điểm trung chuyển, lưu trữ và tổ chức sản xuất theo mùa vụ trước khi xuất khẩu.
Không chỉ trong lĩnh vực logistics, quá trình số hóa và tự động hóa cũng đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều ngành sản xuất khác. Tại Công ty TNHH Sản xuất - Thương mại Mebipha, việc số hóa toàn bộ chuỗi sản xuất từ thức ăn đến trứng giúp DN tăng 30% năng suất, giảm 20% chi phí quản lý và gần như triệt tiêu sai số tồn kho. Minh bạch dữ liệu cũng giúp DN này đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng khả năng tham gia chuỗi cung ứng hiện đại.
Trong lĩnh vực dệt may, nhà máy thông minh của Công ty TNHH Việt Thắng Jean (TP HCM) được xây dựng trên nền tảng chuỗi cung ứng số, kết nối dữ liệu từ nguyên liệu, thiết kế, sản xuất đến phân phối. Với việc ứng dụng thiết kế 3D, cắt tự động, kho thông minh và hệ thống may hiện đại, DN có thể linh hoạt đáp ứng đơn hàng lớn nhỏ, đạt tiêu chuẩn khí thải khắt khe của thị trường châu Âu.
Thay đổi tư duy quản trị
Hiện nay, không ít DN sản xuất trong nước vẫn phụ thuộc vào lao động thủ công, chỉ hơn 20% DN triển khai tự động hóa ở mức độ một phần và tỉ lệ áp dụng công nghệ thông minh còn rất thấp. Thực trạng này cho thấy dù ngành chế biến - chế tạo tăng trưởng nhanh và tiếp tục là "đầu tàu" thu hút vốn FDI, quá trình chuyển đổi sang sản xuất thông minh vẫn diễn ra chậm.
Theo một chuyên gia công nghệ, nguyên nhân chủ yếu là do chi phí đầu tư ban đầu lớn, nằm ngoài tầm với các DN nhỏ; thiếu nhân lực vận hành công nghệ mới và chưa có lộ trình chuyển đổi tổng thể. Việc chuyển đổi số và tự động hóa không chỉ là bài toán công nghệ, mà quan trọng hơn là thay đổi tư duy quản trị, tái cấu trúc quy trình và nâng cao năng lực con người, đặc biệt là đội ngũ quản lý trung gian, để công nghệ thực sự phát huy hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh.
Lãnh đạo một DN sản xuất tại TP HCM nhận định xây dựng nhà máy thông minh không đơn thuần là lắp đặt dây chuyền tự động hóa mà phải bắt đầu từ quy trình sản xuất tinh gọn. Nếu quy trình chưa được tối ưu mà vội vàng áp dụng công nghệ, lãng phí sẽ càng lớn. Theo vị này, AI hay IoT chỉ phát huy hiệu quả khi nền tảng vận hành tinh gọn, dữ liệu minh bạch và quy trình được chuẩn hóa. Đồng thời, DN cũng cần các chính sách ưu đãi cụ thể, nhất là về thuế, để khuyến khích chuyển đổi sang sản xuất xanh và thông minh.
Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế, ông Gordon Wan, Giám đốc Công nghệ Tập đoàn MiTAC, cho biết một nhà máy tại Đài Loan (Trung Quốc) sau khi áp dụng hệ thống thông minh đã giảm 22% điện năng tiêu thụ, 18% phát thải CO2 và rút ngắn tới 80% thời gian lập báo cáo ESG. Ông Wan khuyến nghị DN Việt nên bắt đầu bằng việc thử nghiệm trên một dây chuyền, xây dựng nền tảng dữ liệu và đầu tư vào con người, bởi AI sẽ không tạo ra giá trị nếu thiếu dữ liệu và đội ngũ nhân sự am hiểu nội bộ.
Ở góc độ triển khai, ông Trần Minh Long, Công ty Cổ phần Công nghệ và Truyền thông Việt Nam, cho rằng DN cần chuẩn hóa và tối ưu quy trình trước khi tự động hóa, đồng thời xác định mục tiêu rõ ràng và đánh giá kỹ hiệu quả đầu tư. Việc tự động hóa chỉ nên tập trung vào các khâu lặp lại, dễ sai sót, mất thời gian hoặc cần tích hợp nhiều hệ thống. Trong quá trình triển khai, DN phải lựa chọn công nghệ phù hợp, thiết kế quy trình linh hoạt, thử nghiệm kỹ lưỡng và chủ động đào tạo nhân sự. Sau khi đưa vào vận hành, hệ thống cần được giám sát, tối ưu liên tục, chú trọng bảo mật, bảo trì định kỳ và có phương án dự phòng để giảm rủi ro, tránh phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc.
Cốt lõi là nguồn nhân lực
Theo Tập đoàn nghiên cứu thị trường IMARC, trước nhu cầu ngày càng tăng về sản xuất thông minh, Việt Nam cần chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hỗ trợ quá trình chuyển đổi. Các cơ sở giáo dục và DN cần tăng cường hợp tác đào tạo các kỹ năng sản xuất tiên tiến như robot, AI và phân tích dữ liệu. Việc tập trung nâng cao năng lực con người được xem là nền tảng giúp lực lượng lao động đủ khả năng quản lý và vận hành hệ thống thông minh, qua đó giúp Việt Nam tận dụng hiệu quả các xu hướng công nghệ mới.
Bình luận (0)