Đông Kinh Nghĩa Thục: Khai trí, canh tân.- Năm 1907, Đông Kinh Nghĩa Thục ra đời, do cụ Lương Văn Can cùng một số các cụ như Dương Bá Trạc, Nguyễn Quyền, Hoàng Tăng Bí, Lương Trúc Đàm (con cả cụ Lương, cũng đã đỗ cử nhân) và mấy nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học... đứng ra thành lập. Cụ Lương Văn Can cao niên nhất, giàu khí phách lại chín chắn, ôn hòa điềm đạm nên được bầu làm thục trưởng, cụ Nguyễn Quyền làm giám học. Trường dạy miễn phí và cung cấp sách vở, dụng cụ học tập cho học sinh. Kinh phí do hội viên tùy tâm đóng góp. Riêng cụ Lương cống hiến ngôi nhà số 4 Hàng Đào làm trường sở ban đầu. Chủ trương của trường là dứt bỏ lối học khoa cử hủ lậu, dạy quốc ngữ, tiếng Pháp và cả Hán văn, đưa vào các môn toán, khoa học thường thức, tùy nghi tiếp thu những cái mới của văn minh Âu Tây để khai trí, canh tân - một tư tưởng, phương pháp rất mới ở thời bấy giờ. Nhưng chủ yếu bên trong là làm cho người dân ý thức được thân phận nô lệ mất nước, khơi dậy lòng ái quốc và ý chí phục thù để rửa nhục cho nòi giống.
Buổi đầu Nghĩa Thục phát triển nhanh chóng, tiếng tăm lan rộng cả nước. Kinh phí do hội viên đóng góp không đủ, có lúc gặp khó khăn, cụ bà đã phải bán đi ngôi nhà di sản của tổ tiên - hiệu buôn Quảng Bình An ở phố Hàng Gai - để chi viện cho Nghĩa Thục và các hoạt động liên hệ. Chính quyền Pháp lúc đầu tỏ ra dễ dãi, thả lỏng, nhưng vẫn bí mật đề phòng cảnh giác. Thế rồi việc phải đến đã đến, hoạt động hơn nửa năm thì Đông Kinh Nghĩa Thục đã được lệnh đóng cửa! Rồi tiếp theo là một số biến cố trong nước khiến một loạt các nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Nguyễn Quyền... bị liên lụy, người bị chém đầu, kẻ cầm tù, đày đi Côn Đảo hoặc an trí, quản thúc. Riêng cụ Lương Văn Can cũng bị giam rồi bị tuyên án đày đi Nam Vang 10 năm. Mãn hạn, dù đã ngoài 70 tuổi, cụ trở về Hà Nội, lại mở trường dạy học tại số 4 Hàng Đào, lấy tên là “Ôn Như Trường”, môn sinh khá đông.
Ngày cụ Lương ra đi.- Ngày
Một nhà cách mạng.- Trước khi mất, cụ Lương để lại cho môn sinh 6 chữ: “Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ” (Giữ gìn tinh hoa của dân tộc, rửa sạch tủi nhục cho đất nước), cũng đã nói lên tinh thần yêu nước thương dân của chí sĩ họ Lương. Điều đáng tiếc là di bút của cụ Lương hiện nay còn quá ít, chỉ vài bài thơ và chắc chắn di bút của cụ đã bị thiêu hủy cùng với những tài liệu của Đông Kinh Nghĩa Thục.
Ở góc độ lịch sử, Đông Kinh Nghĩa Thục với cụ Lương Văn Can là một hiện tượng văn hóa - lịch sử và cách mạng độc đáo. Dù chỉ tồn tại hơn nửa năm, Đông Kinh Nghĩa Thục có ảnh hưởng rất lớn đến các phong trào yêu nước lúc bấy giờ. Ảnh hưởng đó cho đến nay chúng ta vẫn chưa đánh giá hết. Hy vọng trong cuộc hội thảo về Đông Kinh Nghĩa Thục do Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TPHCM được tổ chức trong tháng 7 tới sẽ có những đánh giá xác đáng hơn về tầm ảnh hưởng của Đông Kinh Nghĩa Thục. Với cá nhân cụ Lương Văn Can, tuy mưu đồ rửa nhục cho đất nước không thành, nhưng một Lương Văn Can với Đông Kinh Nghĩa Thục và một Lương Ngọc Quyến (con trai cụ) với cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, là những đóng góp đáng trân trọng trong lịch sử giải phóng dân tộc.
Bình luận (0)