170 khách mời với hơn 60 tham luận (trong đó có 15 tham luận của các nhà khoa học đến từ Nga, Mỹ, Trung Quốc, Canada, Đài Bắc - Trung Quốc, Hàn Quốc, được chia thành 4 tiểu ban: Tiểu ban 1 – Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 - 2006); tiểu ban 2 – Quan hệ văn chương, văn hóa; tiểu ban 3 – Vai trò của dịch thuật văn chương với sự phát triển của văn chương dân tộc; tiểu ban 4 – Quan hệ tương tác giữa văn học truyền miệng và văn học viết, văn học và các nghệ thuật khác. Theo đánh giá của các nhà văn thì đây là một hội thảo quan trọng, cần thiết trong xu hướng hội nhập, toàn cầu hóa, một cơ hội để nhìn nhận, đánh giá lại những việc đã và chưa làm được của văn học Việt Nam từ xưa đến nay.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng hơn 30 năm qua, văn học Việt Nam đã tạo dấu ấn bằng việc phát hiện cá nhân và ghi nhận sự phát hiện của cá nhân. Chính vì thế, dù ông thích thơ Huy Cận nhưng lại đánh giá Xuân Diệu cao hơn, bởi thơ Xuân Diệu là tiếng nói thống thiết nhất cho sự giải phóng cá nhân.
Theo nhà văn, để đánh giá văn học Việt Nam đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong tương lai không thể né tránh dòng văn học miền Nam trước năm 1975 và các nhà văn Việt Nam đang sống ở nước ngoài. Nhà nghiên cứu Trần Trọng Đăng Đàn cũng đồng ý với nhà văn Nguyên Ngọc. Theo ông, đó là điều trăn trở của văn học từ 10 năm nay và cần phải tiếp tục bàn cho rõ vì đó cũng là dòng văn học mang tính lịch sử đậm đà. Chúng ta cần xem xét lại những tác phẩm trước giải phóng 1975, trong vùng bị Mỹ kiểm soát rồi công bố trên báo chí những tác phẩm được phép lưu hành.
Văn chương hậu hiện đại cũng là một đề tài được nhiều nhà văn thảo luận. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân nói, đối với ông, khái niệm hậu hiện đại như một cái rổ đựng tất cả những gì người ta muốn gán cho nó là đổi mới, cách tân. Một số nhà văn thừa nhận, mỗi người có một khái niệm “hậu hiện đại” của riêng mình.
Bình luận (0)