Những đóng góp của ông cho văn học quốc tế ngữ thế giới, ngoài những bài thơ, tham luận, phải kể đến những bản dịch quốc tế ngữ kiểu mẫu như Tuyển tập thơ Tố Hữu, Nhật ký trong tù và Tuyển tập Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Oâng cũng đã tham gia dịch một số tác phẩm sang tiếng Việt như kịch Khuất Nguyên của Quách Mạt Nhược, Hamlet của Shakespear.
Đào Anh Kha từng làm uỷ viên biên tập các tờ báo định kỳ Mác xít, Thống nhất, Nhân dân miền Nam, biên tập viên báo Nhân dân, chủ bút tạp chí Thanh Niên, uỷ viên cố vấn trong BCH chi hội Nam Bộ của Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Oâng đã xuất bản các tập thơ Lành vỡ hoa yêu ( 1992), Lễ ca tình yêu của tôi ( song ngữ Việt - Pháp, 1997) và thiên anh hùng ca kiểu mới Hồ Chí Minh, sự thật truyền kỳ ( 1990, tái bản 1996 ). Thơ của ông mang nhiều nét lạ với giọng điệu trong trẻo, hồn nhiên nói như giáo sư Trường Lưu, nguyên Viện trưởng Viện hoá Việt Nam “ một hồn thơ đang vươn lên, một sức thơ đang bật dậy với tất cả sự hào hứng, trẻ trung của một tâm hồn nhạy cảm, giàu cảm xúc và suy tư”.
Phóng viên: Từ một y tá, con đường nào đã đưa bác đến với thơ và trở thành một nhà báo?
Đào Anh Kha: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo ở tỉnh Quảng Trị, phải nhờ người cậu ruột nuôi ăn học và cũng chỉ có vẻn vẹn 6 năm ngồi trên nghế nhà trường. Có lẽ do ảnh hưởng từ cha, một nhà nho nổi tiếng hay chữ, thường xướng hoạ với nhà thơ nổi tiếng Quách Tấn, nên từ nhỏ tôi đã tập tễnh làm thơ. Tôi đã từng làm y tá phụ trách bệnh xá cho một hãng xây cầu cống và nhà máy thuỷ điện của Pháp tại Đà Lạt. Dưới sự hướng dẫn tận tình của một bác sỹ người Pháp, tôi tự học hết chương trình đào tạo y sĩ. Những ngày đầu của kháng chiến Nam Bộ, tôi phụ trách ngành quân y của mặt trận tiền tuyến Miền Đông gồm ba tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Thủ Dầu Một. Khi ấy bác sĩ Hồ Văn Huê phụ trách quân y ở hậu phương đóng trong rừng. Không biết do tình cờ hay số phận, trên chiến trường, tôi bị lạc đường rồi chuyển sang viết cho tờ báo Sống của Tổng công đoàn miền tây Nam bộ. Sau đó, được cử làm đại biểu của thanh niên Sài Gòn vào BCH đoàn thanh niên cứu quốc Nam Bộ, làm chủ bút tạp chí Thanh Niên. Năm 1948, vở kịch đầu tay của tôi có tên Phạm Hồng Thái, được giải thưởng văn học của Sở thông tin tuyên truyền Nam Bộ, tôi được đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh tặng một cuốn sách dạy quốc tế ngữ bằng tiếng Pháp. Từ đó tôi và đồng chí ấy thường liên lạc bằng ngôn ngữ quốc tế ( Esperanto ).
* Ở Việt Nam, còn ít người biết về Esperanto vì hình như nó không phổ biến bằng những ngôn ngữ khác, đúng vậy không, thưa bác ?
- Tiếng Esperanto dễ học, dễ đọc, dễ nói, dễ viết hơn so với các ngôn ngữ khác nhưng cũng có bản sắc riêng. Lê nin từng nói “ Esperanto là tiếng latinh của giai cấp công nhân thế giới”. Tuy nhiên, đến nay ngôn ngữ này cũng chưa phổ biến bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Trong hơn 20 năm kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta, Esperanto và Hội quốc tế ngữ bảo vệ hoà bình Việt Nam đã phát động phong trào ủng hộ Việt Nam mạnh mẽ và thiết thực. Đã có hai nhà quốc tế ngữ Nhật Bản và Mỹ tự thiêu để phản đối chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam. Một nhà quốc tế ngữ là y sĩ giải phẫu Tây Ban Nha làm đơn xin gia nhập Quân đội giải phóng miền Nam Việt Nam và được Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam công nhận là “ chiến sĩ quốc tế danh dự”.
* Bác là một tấm gương tự học tập, rèn luyện và say mê nghiên cứu kể cả hiện nay khi đã trên 80 tuổi.
- Tôi rất có ý thức phát huy năng khiếu ngôn ngữ của mình và quyết tâm trở thành người có ích cho xã hội. Tiếng Anh, tiếng Pháp, Quốc tế ngữ và cả tiếng Việt đều là do tôi tự học tập, tự rèn luyện. Tôi muốn đem lại niềm tin cho những thanh niên xuất thân từ nghèo khó, học hành dở dang mà vẫn khát khao thành đạt, được cống hiến cho đất nước. Hiện tôi cùng một số người khác đang hoàn tất cuốn từ điển Tục ngữ so sánh Việt - Anh – Pháp - Esperanto.
* Có gì đặc biệt trong cuốn từ điển này, thưa bác?
- Đây là sự so sánh các kho tàng tục ngữ của những dân tộc khác nhau và những ngữ khác nhau, chứng minh tính đồng nhất của toàn thể nhân loại về mặt tình cảm và tư duy. Điểm đặc biệt là tục ngữ của ngôn ngữ nhân tạo Esperanto không bắt nguồn từ nền văn học dân gian truyền miệng mà bằng quá trình phát triển của văn học viết, kết tinh nhiều tinh hoa của các kho tàng tục ngữ trên thế giới. Bằng công trình nghiên cứu này, chúng tôi muốn gióp một phần nhỏ làm các dân tộc xích lại gần nhau hơn.
* Nghe nói bác sắp xuất bản một tập thơ mới, có tên rất lạ là Tận bến mai sau và Trên thuyền bay sáng tạo
- Có thể nói, nguồn cảm hứng sáng tác thơ của tôi là tình yêu. Tập thơ sắp xuất bản của tôi cũng là về tình yêu nhưng lại hoàn toàn mới mẻ bởi tôi lấy cảm hứng từ những phát minh vượt bậc của khoa học kỹ thuật trong thời hiện đại. Ơû đây, nhà thơ cho trí tưởng tượng bay bổng về phía tương lai xa xôi, đến tận 500 năm sau, khi mà cái thiện hoàn toàn thắng cái ác và trên mặt đất này trí tuệ và trái tim con người lên ngôi ngự trị.
Bình luận (0)