icon 24h qua
Đăng nhập
icon Đăng ký gói bạn đọc VIP

Nghề làm giấy sắc họ Lại ở Nghĩa Đô

Theo Nhà văn Tô Hoài- Công an nhân dân

Ngày 1-12-2006, Bộ Văn hóa - Thông tin đã công bố xếp hạng Di tích quốc gia nghề làm giấy sắc họ Lại, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy. Nghề giấy dó, nghề làm giấy sắc của những thời kỳ đã qua, nhưng nguyên vật liệu của nghề và cây dó lại có cơ hội vào vận hội mới.

Câu ca dao làng nghề mà trẻ con vùng Kẻ Bưởi ngày ngày đã thường hò hát từ thuở lên mười:

Kẻ Bưởi là vùng quanh thành, bao quanh thị. Đây là những làng mạc ngoại ô cung cấp ái ăn cái mặc và mọi thứ cho đời sống người thành thị và làm hào lũy cho kinh thành.

Và mặc dầu bao nhiêu làng nghề đã phải bỏ quê hương vào làm phên giậu cho kinh đô Phú Xuân, nhưng quanh kẻ chợ Thăng Long vẫn có đầu hồ trồng sen, có vườn tỏi, rau thơm trồng hoa, cây thuốc, có làng đúc đồng, có lò bát, chum vại, có giấy vùng Bưởi. Họ Lại ở Nghĩa Đô làm giấy sắc cho triều đình, phải đưa vào tận Phú Xuân kinh đô mới... Ngoài ra, vẫn làm giấy bản, giấy moi, giấy hẩm để làm giấy viết, giấy gói mọi thứ.

Ai ơi! Đứng lại mà trông

Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa

Kìa giếng Yến Thái như kia

Giếng sâu chín trượng, nước thì trong xanh

Đầu chợ Bưởi có giếng cầu canh

Kẻ đi người lại như tranh họa đồ

Cổng chợ có miếu thờ vua

Dường như chính xứ lên chùa Thiên Niên

Chùa Thiên Niên có cây vọng cách

Chùa Bà Sách có cây đa lông

Cổng làng Đông có cây khế ngọt

Con gái kẻ Cót buôn dăm buôn xề

Hai làng Nghè dệt cửi kéo hoa

An Phú nấu kẹo mạch nha ngọt lừ

Làng Vòng làm cốm để mà tiến vua

Họ Lại làm giấy sắc vua

Làng Láng mở hội kéo cờ hùng ghê.

Thời ấy, cả vùng Bưởi xuống đến Cầu Giấy, đến Cót đều làm nghề giấy, phổ biến nhất là giấy bản, còn dùng cho việc học, giấy dùng cho công sở việc quan.

Và nghề làm giấy sắc, tên gốc là giấy dó, giấy dó là nghề cổ của dân tộc Dao ở miền núi Việt Bắc và Đông Bắc nước ta, đến bây giờ vẫn còn. Người Dao bóc vỏ cây bo, cây dướng đem giã bột thành giấy đem ra chợ bán ngày Tết để làm bùa cúng lễ.

Thời chữ quốc ngữ dùng giấy tăng, nhưng giấy ta vẫn thông dụng, có giấy bản, giấy moi, giấy phèn, giấy hẩm. Nguyên liệu chính làm giấy là cây dó. Cây dó chạc cây sắn, trồng trên đồi, được hai, ba năm thì bóc vỏ. Vỏ bóc từ ngọn đến gốc, phơi nắng cho xác ra rồi bó lại từng bó như cẳng ngô. Lái dó lên tận đồi mua rồi cho xuống bè xuôi sông Hồng về bến Chèm, người mua đưa về các kho trọ dó làm giấy ở Bưởi, ở Cót, ở Cầu Giấy.

Cây dó đã có tiếng, những nơi có dó tốt như dó Lâm (Lâm Thao), dó Cổ Phúc, dó Nghĩa Lộ. Năm gần đây, tôi đi Nghĩa Lộ, những quả đồi chẳng còn trồng dó, người ta trồng chẩu, trồng củ mài, trồng cây lá tai tượng (cây chống sạt lở của Cơ quan Nông nghiệp quốc tế PAM cung cấp). Bà con ở đồi trên Nghĩa Lộ vẫn nhớ cây dó ngày trước tốt cây mà bán tốt tiền, bây giờ các vùng đồi vẫn trồng cây dó để ươm lấy giống.

Nghề làm giấy dó đã mấy trăm năm để lại, gốc ở cây dó, đất hợp lưu của sông Thiên Phù và sông Tô Lịch, thế kỷ thứ X khi Lê Hoàn đưa đại quân đi chống quân Tống xâm lược mà di tích còn tới ngày nay, đình làng Nghè (Trung Nha) thời Trần thờ Trần Công Tích, tướng của Vua Lê Đại Hành.

Cho đến triều Lê - Trịnh, theo gia phả họ Lại vào thời Lê có ông Lại Thế Giáp kết hôn với con gái Chúa Trịnh Tráng, bà chúa đã tâu với vua Lê và chúa Trịnh cho họ Lại được làm giấy sắc để nhà vua ban khen cho các quan có công. Chúa Trịnh Tráng ra lệnh mở cục làm giấy sắc phục vụ nhà vua phong cấp cho các quan và các vị thần linh được phong thành hoàng làng.

Cháu bốn đời cụ Lại Thế Giáp làm quan tới chức Cẩm y vệ Đô tư chỉ huy sứ ngự giám Kim Tiên cục tước Đô Thịnh Hầu. Đến nay, ngoài đồng Nghĩa Đô còn ngôi mộ cụ Đô Thịnh Hầu tương truyền do cụ Tả Ao để mộ.Giấy sắc có hai loại: hoặc sắc phong quan lại có công được cất giữ trong nhà thờ họ, hoặc sắc phong các thần linh được thờ trong đình làng, đền miếu.

Để làm được tờ giấy sắc, công việc người thợ phải qua nhiều công đoạn và các khâu kỹ thuật. Năm trước, trên tạp chí Xưa và nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam có một người Pháp đã viết bài nghiên cứu công phu về nghề làm giấy ở Bưởi, về nghề giấy ngày xưa, nhưng cũng không nói được những kinh nghiệm gia truyền.

Đầu tiên vỏ cây dó ở trọ dó gánh về ngâm vào hố nước vôi rồi đổ lên vạc đun rơm và cẳng ngô hai ngày hai đêm. Vỏ dó giã nhừ, bóc lấy phần ruột quẩy ra cối giã dó. Tiếng chày giã dó đã thành câu ca “Tiếng chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” chính là cái cối giã dó này, những tiếng ngày đêm vang động từ Nghĩa Đô sang Yên Thái đến Hồ Khẩu ven Hồ Tây.

“Kìa vạc nấu dó, kìa sông đãi bìa”, giã dó tơi ra rồi quẩy những thúng đại đem ra sông Tô Lịch đãi.

Bây giờ đến việc seo giấy. Cái tàu seo kê trong lều tàu bên bờ ao. Tàu seo đóng bằng gỗ bế dài năm thước, cao nửa thước. Nếu đóng tàu mới, phải miết kỹ sơn theo cho khỏi thủng dột. Nước đổ vào tàu seo rồi thả bột dó vào tàu cùng lúc đổ nước gỗ mò.

Cây mò trên rừng Yên Bái theo bè dó về xuôi, gỗ mò bào mỏng nước trơn như mỡ trong tàu seo. Sáng sớm hai người thợ kéo tàu khoắng đòn seo cả tiếng đồng hồ cho đến lúc nước bột dó và nước gỗ mò đã sánh vào nhau. Nước mò làm cho giấy không dính vào nhau.

Tàu seo giấy hẩm chỉ một cô thợ đứng seo, tàu seo giấy bản thì hai người. Giấy sắc, giấy dó thợ seo phải đứng ba, đứng bốn mới rung được liềm seo đôi.

Một ngày tàu seo được hơn 100 tờ khổ rộng, hai ngày seo đầy uốn, khiêng giấy đến cây ép uốn. Cây gỗ to, trên đặt một hàng tảng đá vít uốn giấy. Nước gỗ mò làm cho giấy rời ra, các bà các cô ngồi bóc uốn. Những tờ giấy phơi khô xếp lại từng trăm, đặt lên phiến đá rồi nghè bằng một cái chày gỗ, tiếng nghè giấy cả đêm, làng tôi tên nôm là làng Nghè, nghè giấy có sự tích là vậy.

Một nồi ba mươi nước da bò, da trâu được đun lên thành keo, đổ vào 2 ống hoa hòe khô. Hoa hòe quấy nước keo thành màu vàng tươi. Từng tờ giấy dó được quét nước hoa hòe phơi lên khắp sân được gọi là giấy sắc. Nhưng đấy mới chỉ là giấy mộc, khâu cuối cùng là vẽ giấy sắc của người thợ làng nghề có hai giai đoạn: vẽ chạy và vẽ đồ. Trong bát kim nhũ vàng bạc, tay người thợ hiện ra con long, con ly, con quy, con phượng, người thợ giấu nghề ngồi vẽ trong buồng che chiếu.

Tôi còn nhớ bấy giờ tôi khoảng 9, 10 tuổi, mới học vỡ lòng trường làng. Công việc nhộn nhịp, lại kín đáo, nhưng là cháu yêu và cháu trai, cũng được mó tay vào giúp ông. Tôi được ông ngoại cho vẽ đồ. Những tờ giấy hòe vàng hoe, đã đóng dấu kim nhũ bốn góc, tôi lấy bút lông chấm kim nhũ tô đuôi rồng, cái mai con rùa và những ngôi sao kim nhũ tròn xoe.

Theo phẩm trật đã quy định những hoa văn trên giấy sắc phong thượng đẳng, trung, hạ đẳng thần. Tôi được nghe kể, năm làm giấy sắc sôi nổi là dịp đại khánh mừng thọ Vua Khải Định, sắc phong chức, phong thần nhà vua lấy đến hàng mấy vạn tờ giấy sắc. Năm ấy cả họ Lại phải đi từng chòm lên ngược mua dó rồi sang các làng Dàn, Cáo thửa liềm seo, sọt đại, các ông tay nghề giỏi như ông Xã Vị, ông trưởng Be, ông Xã Lịch, ông Trương Sạ và ông ngoại tôi là ông Trương Thuận, đôn đốc cả họ có tới nửa năm mới xong, rồi xe tải giấy sắc đi đường thẳng vào Huế.

Cho tới thế kỷ sau không còn có chuyện nhà vua lấy giấy sắc linh đình như thế nữa. Trong kháng chiến chống Pháp, một lớp học chỉnh huấn của trí thức ở Việt Bắc, có luật sư Nguyễn Xuân Dương đã làm việc trà sứ ở Huế có kể ngân sách hàng năm của triều đình Bảo Đại phải đưa sang tòa Khâm Sứ duyệt. Việc mua giấy sắc phong bách thần mấy năm mới lấy một lần vài trăm tờ phải giao cho nhà thầu.

Tôi được nghe chuyện bà ngoại tôi có lần đi với người họ Lại vào đòi nợ nhà thầu Lại Ngọc ở trong Huế. Không đòi nợ được đồng nào chỉ được vào xem lăng vua, phải cởi váy ra, mặc quần trắng mới được vào xem.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai, mọi vật liệu bên Pháp sang đều bị đình đốn. Vùng Bưởi làm giấy ta thay giấy tây, Pháp lập hợp tác, độc quyền bán giấy in sách báo. Nhiều bà con họ Lại cũng làm giấy dó mộc, bán cho các nhà in, các nhà xuất bản in sách đẹp gọi là giấy dó lụa. Giấy dó lụa của nhà ông Lại Viện được nhiều nhà xuất bản ưa chuộng. Những tác phẩm “Vang bóng một thời”, tiểu thuyết “Chiếc lư đồng mắt cua” của nhà văn Nguyễn Tuân đều in giấy dó lụa của nhà sản xuất Lại Viện và cụ Nguyễn cũng đã lên chơi nhà ông Lại Viện.

Cũng thời kỳ khan hiếm giấy ấy có một người Pháp mở một xưởng làm giấy dó. Xưởng giấy ở Thái Hà ấp sản xuất lối nửa cổ truyền, nửa hiện đại, có tới tám tàu seo giấy. Nhưng kéo tàu đánh bột dó cho nhuyễn với gỗ mò thì cho chạy máy và seo giấy bằng liềm đồng. Nhưng hiệu thì trương lên là Papier d'Impérial d'Annam (Giấy Hoàng gia An Nam). Trong lúc hiếm giấy coi như giấy “búp phăng” ở Pháp sang.

Người Pháp này là bác sĩ Piquemann. Xưởng giấy tồn tại được ít lâu thì Nhật đảo chính. Xưởng bị phá trụi và bác sĩ Piquemann mất tích hay bị Nhật sát hại, không biết.

Nghề thủ công làm giấy, nhất là làm giấy dó, giấy sắc không thể thất truyền, có thể phục hồi và phát triển trong thời kỳ đương đại.

Tháng 6/2003, Trung tâm Nhân lực Việt - Nhật (VJCC) phối hợp với Viện Hán Nôm, Khoa Sử, Trường đại học Khoa học Nhân văn, Trường đại học quốc tế KiBi được Sứ quán Nhật tài trợ đã tổ chức hội thảo và triển lãm giấy sắc (Nhật gọi là giấy long đằng). Trong cuộc hội thảo có ông Lại Bàn, ông từ nhà tổ họ Lại tham dự. Cuộc hội thảo công nhận giấy sắc của họ Lại là tinh hoa của kỹ thuật làm giấy của Việt Nam có thể khôi phục nghệ thuật làm giấy cổ truyền này của Việt Nam tương tự giấy long đằng của Nhật.

Cục Di sản văn hóa của Việt Nam dự kiến phối hợp với Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm có thể tiến hành khôi phục một xưởng làm giấy sắc trong dịp nghìn năm Thăng Long tới đây.

Nghề giấy dó, nghề làm giấy sắc của những thời kỳ đã qua, nhưng nguyên vật liệu của nghề và cây dó lại có cơ hội vào vận hội mới. Khi Hồ Chủ tịch qua đời, di chúc của Bác gửi đi cả nước và trên thế giới, tờ giấy trang trọng ấy đã được sản xuất bằng giấy dó của Hợp tác xã Đông Thành, phường Bưởi (Hợp tác xã ở làng Đông, làng Hồ Khẩu). Nghề làm giấy cổ truyền không còn, nhưng cây dó là vật liệu chính của nghề vẫn còn.

Trong nghề làm giấy sắc trước đây, ông Lại Bàn giữ nhà thờ họ vẫn đi mua giấy dó về quét hoa hòe gọi là giấy lệnh, giấy cúng bàn thờ ngày Tết. Ở Bắc Ninh, làng Dương Ổ, xã Phong Khê gần thị xã vẫn mua cây bo, cây kễnh ngoài Quảng Ninh về làm giấy lệnh cung cấp nhiều cho các trường mỹ thuật, mỹ nghệ để họa sĩ và sinh viên vẽ tranh lụa bằng giấy dó lụa.

Giấy làm bằng vỏ cây dó như ta đã biết, bền dai cả mấy trăm năm như các sắc phong ở các đình đền và gia phả còn lại vẫn như nguyên.

Vào thời đại mới, giấy dó có thể làm các loại bằng cấp, chứng chỉ, huân chương và mọi giấy tờ để lưu giữ hàng đời, như năm 2003, các cơ quan liên quan nghề giấy dó của Việt Nam và Nhật Bản đã hội thảo và đề xuất.

Nhân dịp tổ chức nghề giấy dó, giấy sắc họ Lại phường Nghĩa Đô được Bộ Văn hóa - Thông tin tôn vinh xếp hạng di tích quốc gia - một nghề cổ truyền, nếu được khôi phục sẽ có giá trị lâu dài. Công cuộc này, Sở Văn hóa - Thông tin, cơ quan chỉ đạo kỷ niệm nghìn năm Thăng Long, cơ quan nghề thủ công thành phố, Bảo tàng Dân tộc học của Trung ương, cùng con cháu tổ nghề giấy sắc họ Lại ở Nghĩa Đô nên hội thảo tiếp tục sự phát triển nghề làm giấy sắc - một nghề cổ truyền cao quý có thể hiện đại hóa được.

Lên đầu Top

Bạn cần đăng nhập để thực hiện chức năng này!

Bạn không thể gửi bình luận liên tục. Xin hãy đợi
60 giây nữa.

Thanh toán mua bài thành công

Chọn 1 trong 2 hình thức sau để tặng bạn bè của bạn

  • Tặng bằng link
  • Tặng bạn đọc thành viên
Gia hạn tài khoản bạn đọc VIP

Chọn phương thức thanh toán

Tài khoản bạn đọc VIP sẽ được gia hạn từ  tới

    Chọn phương thức thanh toán

    Chọn một trong số các hình thức sau

    Tôi đồng ý với điều khoản sử dụng và chính sách thanh toán của nld.com.vn

    Thông báo