Thuở nhỏ, ngày Hải Phòng giải phóng vài năm, tôi nghe các bà chị mình đang học cấp ba phổ thông cứ rảnh ra là đọc cho nhau: “Bảy năm về trước em mười bảy - Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng - Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa - Bữa thì em tới bữa anh sang...” rồi tấm tắc với nhau khen hay. Tôi chưa hiểu gì nhưng những câu thơ ấy đã ngấm vào đời tôi như một nguồn suối lành và cứ thế róc rách trong tôi mãi. Lớn lên, tôi mới biết đó là những câu thơ mở đầu bài thơ Núi Đôi của nhà thơ Vũ Cao. Và tên ông - Vũ Cao - lại tiếp tục khắc vào trí nhớ tôi cùng những Hồng Nguyên, Thôi Hữu, Trần Đăng... như hình tượng những người lính làm thơ thời chống Pháp. Tôi bắt đầu đọc và thích thơ Vũ Cao khi ở rừng Trường Sơn vớ được tập thơ Đèo Trúc ở một trạm bảo vệ đường dây trần thông tin. Vào cuối mùa xuân năm 1977, tôi mới được gặp chính tác giả Núi Đôi tại trại sáng tác Quân khu V (số 10 Lý Tự Trọng, TP Đà Nẵng). Đấy là một người cao lớn như tôi, chừng như hơi một chút bó buộc trong bộ quân phục sĩ quan. Nhưng tính tình cởi mở và dịu dàng. Ông đối với những anh em trong trại sáng tác thật chan hòa như anh em, như đồng đội. Mặc dù khi đó, ông là Tổng Biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội - một tạp chí mà tôi nằm mơ cũng chưa có thơ in ở đấy, dẫu Báo Văn nghệ đã in thơ tôi từ 1975. Khi tôi bày tỏ ước muốn ấy với ông, rất nhỏ nhẹ, ông cười: “Mình đọc ông rồi. Cứ gởi thơ. Sẽ in cả thôi”. Tôi nghe ông gọi mình bằng ông mà lạnh cả gáy. “Bác cứ đùa vậy chứ chắc gì”. Khi nói lại câu chuyện trong cuộc rượu, Thanh Thảo và Thái Bá Lợi cười ha hả: “Bác ấy nói thật đấy. Mày cứ gởi ra tạp chí một chùm mà xem”...
Yêu và quý ông, lại được ông đáp lại ân cần, tôi mới biết ông tên thật là Vũ Hữu Chỉnh tuổi Nhâm Tuất 1922 đồng niên với Hoàng Cầm, cùng quê Vụ Bản - Nam Định với Văn Cao và là anh của các nhà văn Vũ Ngọc Bình, Vũ Tú Nam. Vùng đất của Nguyễn Bính sao lắm người tài văn chương, văn nghệ đến thế. Cũng nhờ vậy mà tôi mới hiểu cái tích ra đời của bài Núi Đôi mà ông viết vào tháng 12-1956 khi Sư đoàn 312 của ông đóng quân ở Sóc Sơn, bên cạnh núi Đôi. Thân hơn một chút về nghề, tôi hay đùa ông: Núi Đôi làm ra tên tuổi Vũ Cao, nhưng Đèo Trúc mới làm ra một Vũ Cao thi sĩ”. Ông cười: “Sao vậy?”. Tôi đọc: “Dãy Yên Tử trùng trùng bao năm vẫn vắng - Vết chân người, nay rợp bóng quân ta - Ồ trúc xanh, lá biếc mượt, da ngà - Hay xứ sở từ xưa đây của trúc...”. Ông lại cười hiền hòa, lão thực.
Ông thường tâm niệm: “Văn chương có phần thật và phần không thật, nhưng phần thật là quan trọng nhất. Chính phần thật của cuộc đời mới làm người đọc xúc động và nhớ lâu”.
Trong làng văn, người luôn luôn có những tác phẩm đã là điều quý, nhưng có người như Vũ Cao, tuy không có nhiều tác phẩm nhưng lại có cách nhìn, cách chăm sóc anh em đến quên hiểm nguy tới mình thì cũng thật đáng trân trọng và kính nể. Có lẽ vì tín nhiệm ấy, trong một nhiệm kỳ rất nhạy cảm từ 1995 - 2000, Vũ Cao đã đảm nhận làm chủ tịch Hội đồng Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam để vực dậy cùng anh em một lứa thơ trẻ với tràn đầy sức lực. Ông đã khiêm nhường góp phần dinh dưỡng nền văn học Việt Nam hiện đại bằng chính sự am hiểu lịch lãm và bao dung như một người đàn anh đôn hậu. Người đi để lại một Núi Đôi như Hồng Nguyên với Nhớ, như Thâm Tâm với Tống biệt hành. Xin vĩnh biệt ông.
Bình luận (0)