Tôi cũng gọi điện cho nhà văn Ma Văn Kháng, Ủy viên Ban Chấp hành, Trưởng Ban Tổ chức hội viên của hội, thế là trên điện thoại anh Kháng và tôi, kể cho nhau nghe những kỷ niệm đẹp đẽ nhất của nhà thơ Xuân Hoàng với hai chúng tôi. Anh Kháng nói: “Có lẽ cũng thật hiếm có một người, một nhà thơ đối với bạn bè với đàn em tốt và thủy chung như anh Xuân Hoàng. Không những thế, anh ấy còn luôn là một người chân thành, cởi mở, ai trong chúng ta cần anh ấy giúp đỡ, anh ấy giúp rất chu đáo, có lẽ đây là cái gốc khiến cho thơ của anh ấy hay và hấp dẫn...
Tôi đã có những kỷ niệm riêng với anh – nhà thơ Xuân Hoàng - đó là những năm tháng chiến tranh thời chống Mỹ ở Quảng Bình. Vâng, những năm tháng bom đạn ngùn ngụt ở một vùng đất cực kỳ đẹp của núi rừng Trường Sơn, của những cồn cát dằng dặc và của sông: Một con sông có cái tên rất thơ là Lệ Thủy và vô số những con sông khác. Ngày ấy, những nơi này là vùng đất mà những cây bút trẻ chúng tôi luôn khao khát tới và khao khát sống; và trong nhiều lần anh cùng sống và cùng làm việc với tôi và với chúng tôi. Những chuyến đi của ngày ấy, chúng tôi nô nức xông vào vùng đất bỏng rộp bom đạn. Còn anh, ngày ấy anh công tác ở Hội Văn nghệ Quảng Bình. Chẳng là mấy năm trước đó anh làm việc ở Nhà Xuất bản Văn học tại Hà Nội, anh đọc các tập thơ và làm cho chất lượng của các tập thơ của các nhà thơ xuất bản ở đây được nâng lên. Anh là một nhà thơ, rất hiểu thơ đồng nghiệp, và hơn thế anh còn là một nhà biên tập thơ cự phách. Các đoàn nhà thơ, nhà văn vào đất lửa đều chỉ mong gặp anh. Và, tôi vẫn còn nhớ cứ mỗi đoàn vào đến Quảng Bình là lại đến ngay nơi anh ở và làm việc. Gặp anh là thấy vui, là nghe được tiếng cười thật sảng khoái và thánh thiện của anh, với giọng nói hồn hậu, cởi mở và chân tình. Nơi đâu trên đất Quảng Bình vừa có chiến tích của quân và dân địa phương là anh dẫn chúng tôi đi. Chúng tôi đi ban ngày dưới tiếng phản lực Mỹ và đi vào ban đêm dưới ánh hỏa châu. Chúng tôi đi trên những lối mòn, và cả tắt ngang qua những thảo nguyên là đồi cỏ trùng điệp, chân quệt ngang qua những bụi hoa chắt chiu thơm thơm, và trong các chuyến đi vui biết bao ấy, bao giờ cũng có anh – nhà thơ Xuân Hoàng đi đầu đoàn, anh là người thuộc tất cả các ngõ ngách trong cái thiên nhiên miên man và kỳ thú của Quảng Bình. Trong một đêm đi như thế của chúng tôi, một đêm trăng, trăng ở Quảng Bình sáng đến lạ lùng, chúng tôi nằm nghỉ ngay trên một sườn đồi thoai thoải của một thảo nguyên và anh – nhà thơ Xuân Hoàng - đọc thơ. Anh đọc thơ của anh, những bài mà anh vừa sáng tác, thế rồi bỗng nhiên anh nói, giọng nói của anh trong vắt: “Này các cậu ơi, không hiểu sao những ngày cam go này, mình hay nhớ đến Chinh phụ ngâm lắm nhé...”. Một nhà thơ khác bỗng kêu lên: “Ừ nhỉ, bây giờ là luân phiên nhau, ai nhớ được khúc nào đọc khúc ấy nhé...”. Nhà thơ Xuân Hoàng nói ngay: “Để mình đọc cho, mình thuộc mà”. Vậy là chúng tôi, tất cả nằm áp lưng trên cỏ gối đầu lên ba lô nhìn trăng và lắng nghe anh đọc Chinh phụ ngâm.
Cứ thế anh đọc trọn vẹn toàn bài Chinh phụ ngâm. Thế rồi trong đoàn chúng tôi có mấy anh mê thơ Pháp lại vòi anh Xuân Hoàng đọc thơ của Rimband... của Verlaine v.v... Nghe anh đọc thơ Pháp bằng tiếng Pháp, tôi chưa thấy ở ta ai đọc hay hơn. Rồi anh kể anh với nhà thơ Bulgaria – Dimitrôva trò chuyện với nhau bằng tiếng Pháp khi anh đi thăm đất nước của bà. Những chuyến đi như thế, gần anh tôi rất cảm phục anh khi biết anh là một người có kiến thức rất uyên bác không chỉ trong lĩnh vực văn học mà trong nhiều chuyên ngành...
Trong các chuyến đi đó, anh không những kể cho chúng tôi mọi diễn biến của tình hình chiến sự và sản xuất, mà anh còn kể rất nhiều những tấm gương, những cuộc đời và số phận của rất nhiều con người ở đây, cả những chuyện riêng tư đầy ấn tượng của họ. Trong nhiều lần, anh kể lại với tôi các nhân vật như thế, và anh gọi là hồ sơ nhân vật. Nhờ có các câu chuyện của anh trong nhiều chuyến đi của chúng tôi, mà kết cấu của tiểu thuyết Hành lang phía đông của tôi hình thành.
Anh – nhà thơ Xuân Hoàng, có lẽ là một người đi nhiều nhất trong giới văn chương trên đất nước ta. Nhà văn Ma Văn Kháng kể rằng, trong lúc anh Kháng đang khao khát giá mà có một ai trong giới lên Lào Cai, anh Kháng sẽ nguyện đọc những truyện ngắn anh vừa viết xong, thì nhà thơ Xuân Hoàng gõ cửa và thế là những ngày hàn huyên bất tận. Đến nay, khi nhắc lại, nhà văn Ma Văn Kháng vẫn còn xúc động...
Anh – nhà thơ Xuân Hoàng vô cùng yêu quý của chúng tôi và tôi, cuộc đời ngời sáng và thánh thiện của anh cùng với thơ anh sẽ mãi mãi còn trong tâm khảm chúng tôi, đàn em kề cận anh và trong gia tài văn học của đất nước chúng ta.
Nhà văn Bùi Bình Thi
Tự biết
Mắt không thấy rõ nữa rồi!
Mờ mờ nhân ảnh dòng đời đi qua
Sắp tàn một kiếp tài hoa
Nắng thu xanh, ánh trăng xa có buồn?
Hưng, vong, suy, vượng lẽ thường
Cầm như một áng mây vương cuối trời!
Mắt không thấy rõ nữa rồi!
Thì thu con mắt nhìn đời vào trong
Người rồi về với hư không
Thì thôi, xin khỏi bận vòng trầm luân
Thì thôi, khỏi vướng bụi trần,
Càng long lanh sáng chữ “tâm” với đời.
Mắt không thấy rõ nữa rồi!
Buồn vui xin gởi xa vời bóng mây
Bâng quơ mấy khúc vơi đầy
Gởi mai sau, đợi cái ngày ra đi!
Thảnh thơi ngày tháng “vô vi”
Cuối cùng là cuộc chia ly nhẹ nhàng.
Tháng 2-1996
Bình luận (0)