- “Từ điển tục ngữ Việt” (Nguyễn Đức Dương): “Sượng mẹ bở con: Củ cái khoai sọ càng sượng thì củ con tất càng bở. Hay dùng để chỉ rõ một lẽ thật: “Đừng vội coi khinh những thứ có vẻ ngoài xấu xí vì lắm thứ thực chất vốn khác xa vẻ ngoài”.
- “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (GS Nguyễn Lân): “Sượng là nói khoai chưa thực chín, còn sần sật ý nói: Mẹ phải chịu đựng khó khăn để cho con được sung sướng”.
- “Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam” (Nhóm Vũ Dung): “Một kinh nghiệm chọn khoai sọ (cây thân cỏ cùng họ với ráy, lá to, cuống dài hình măng, củ hình cầu, thường mang nhiều củ con, nhiều bột dùng để ăn): củ cái ăn sượng, cứng, không ra gì, củ con ăn ngon, bở”.
- “1576 thành ngữ tục ngữ cần bàn thêm” (Lê Gia) bác bỏ cách giảng của GS Nguyễn Lân, Nhóm Vũ Dung và đưa ra cách hiểu khác: thông thường “củ mẹ thuộc giống bở thì sẽ đẻ ra củ con cũng bở, củ mẹ sượng thì sẽ đẻ ra củ con cũng sượng. Đàng này củ mẹ thuộc giống sượng, mà lại đẻ ra củ con thuộc giống bở, thật là sự hãn hữu, ít có vậy. Ý nói: mẹ dở mà sinh con hay, mẹ xấu mà sinh con tốt. Câu này cũng giống câu “Xấu giây tốt củ”.
Theo chúng tôi, cách hiểu “Mẹ phải chịu đựng khó khăn để cho con được sung sướng” (GS Nguyễn Lân) khó thuyết phục. Vì mẹ ăn miếng chưa chín, nhường con miếng đã chín, không phải là sự “chịu đựng khó khăn” (chuyện đó chỉ là khó khăn chốc lát). Cách hiểu của Lê Gia càng không ổn vì tỉ lệ tinh bột phụ thuộc vào chất đất, dinh dưỡng, thời vụ chứ không phải giống... Cũng không có quy luật củ mẹ càng sượng thì “củ con tất càng bở” như Nguyễn Đức Dương giải thích.
Trong thực tế, tục ngữ “Sượng mẹ, bở con” được dùng với nghĩa là kinh nghiệm chọn các loại khoai, củ (sắn, dong...). Củ cái to nhưng thường sượng, củ nhỏ mới là củ bở, ngon. Nguyên do: Củ là phần thân ngầm (hoặc rễ) dưới đất phình ra, chứa chất dinh dưỡng dự trữ, dùng để nuôi cây trong một số thời điểm. Một số loại cây hằng năm như: gừng, nghệ, khoai lang, khoai tây, khoai sọ, khoai riềng (còn gọi dong riềng, dong tây), dong ta... thường được nông dân trồng bằng củ (tức lấy mầm củ làm giống). “Củ cái” (củ mẹ, củ giống) sau khi nảy chồi, đẻ nhánh (sinh củ con) vẫn tiếp tục sinh trưởng và tồn tại trong đất. Khi thu hoạch, thường “củ cái” đã tiêu đi; nếu còn, ăn sẽ bị sượng, do đã cung cấp chất dinh dưỡng cho quá trình nuôi thân, tạo rễ, củ mới.
Còn một loại “củ cái” (củ to) nữa, được hiểu là củ sinh ra từ lứa đẻ đầu tiên. Toàn bộ phần củ nếu không được thu hoạch thì vẫn tồn tại trong đất, sống bằng nguồn dinh dưỡng dự trữ. Đến chu kỳ sinh trưởng mới, chất tinh bột trong lứa củ cái vụ trước dần chuyển hóa thành đường để nuôi cây trong quá trình nảy chồi, phát triển thân lá và đẻ ra lứa củ mới. Bởi vậy, những loại củ cái quá lứa hoặc tồn tại từ vụ trước trông to, già nhưng do không còn tinh bột nên ăn sượng. Các củ con có kích thước tương đương củ mẹ hoặc nhỏ hơn nhưng thuộc loại “bánh tẻ” (không non, không già), ăn bở, ngon vì vừa đủ thời gian sinh trưởng, chất tinh bột nhiều. Từ thực tế đó, đối với cây có củ, chu kỳ sinh trưởng hằng năm, khi thân lá bắt đầu úa vàng, có dấu hiệu “xuống mã” thì nông dân thu hoạch để bảo đảm chất lượng sản phẩm. Nếu để quá lâu trong đất, sẽ đến lúc cả củ mẹ lẫn củ con đều sượng.
Như vậy, từ “sượng” trong câu “Sượng mẹ, bở con” được hiểu theo nghĩa thứ hai mà Từ điển Vietlex đã giảng: “Ở trạng thái nấu chưa được chín, hoặc do bị kém phẩm chất, không thể nào nấu cho chín mềm được”.
Bình luận (0)