Khó nói mặt nào quan trọng trong đời ông, ở mỗi lĩnh vực đều có những thành công đáng kể. Và các mặt hoạt động gắn chặt với nhau. Trong nhà chính trị của Trần Bạch Đằng có bóng dáng nhà văn, trong nhà văn có bóng dáng nhà chính trị, hòa quyện thành con người Trần Bạch Đằng độc đáo bản lĩnh, không lẫn vào ai được.
Thơ Trần Bạch Đằng có cái bi hùng, tha thiết của lời hịch truyền:
Đã không được đón Bác vào
Thì đem linh cữu đặt cao giữa trời
(Khóc Bác Hồ)
Trong tay quả chín mặc dầu
Bâng khuâng như mối tình đầu... Lạ không?
(Nghĩ về ngày đại thắng)
Ông viết văn rất sớm, đầu tiên là kịch nói, năm 1951 viết vở kịch Trần Hưng Đạo bình Nguyên. Tiếp theo: Nửa tuần trăng kỳ lạ (1984), Tình yêu và lời đáp (1985), Một mùa hè oi ả (1986), Một mối tình (1987), Tầm nhìn từ 700 năm trước (1987).
Tập thời luận Kẻ sĩ Gia Định (1999) có những suy nghĩ mang trí tuệ sáng suốt của một người lãnh đạo phong trào và sự trầm tĩnh sâu sắc của một kẻ sĩ cách mạng: “Có người quá thương Việt Nam nói chúng ta đang “thế thiên hành đạo”, như những nghĩa sĩ Lương sơn Bạc, nhân dân Việt Nam đang thay Trời trừ hung khử bạo, vén mây mù xua bóng tối... Nhưng chúng ta không muốn mình xuất hiện như một cái gì ghê gớm... Chúng ta muốn là những người bình thường, hành động của chúng ta nếu có sức cổ vũ thì không phải ở khía cạnh xem nó là một huyền thoại, mà khía cạnh nó là việc ai cũng có thể làm được”.
Nhưng sáng tác gây ấn tượng, để lại cho người đọc nhiều cảm mến là văn xuôi, trong đó có nhiều tiểu thuyết dựng thành phim gây được tiếng vang. Đó là những tập truyện ngắn Bác Sáu Rồng (1975), Một ngày của bí thư tỉnh ủy (1985), truyện ký Ngày về của ngoại (1985), Viết về những người đã khuất (1990).
Tiểu thuyết Ván bài lật ngửa (1989) viết về anh hùng tình báo Phạm Ngọc Thảo, thật đặc sắc, đã chuyển thành phim rất thành công. Nhờ là người trong cuộc, hiểu biết hoạt động nội thành, tác giả đã miêu tả một cách chân thực và đúng mức.
Thành công nhất có lẽ là tiểu thuyết Chân dung một quản đốc (1978). Người lính sau chiến tranh chuyển sang làm kinh tế, đó là chuyện phổ biến sau năm 1975 cũng là đề tài yêu thích của các nhà văn. Trần Bạch Đằng có ưu thế về tầm nhìn, vốn sống, cộng với đức tính trầm tĩnh vốn không thể thiếu của người viết tiểu thuyết. Nhân vật Hai Cũ là một điển hình cho kiểu “người lính trở về” ấy. Trình độ có hạn, lao vào “trận giặc kinh tế” lăn xả nhiệt tình như hồi xưa đánh giặc, “cuộc đời giang hồ của anh để lại gia tài đáng quý: đó là luôn luôn muốn cực thân...”.
Anh làm quản đốc một phân xưởng cơ khí, luôn “đấu” với cấp trên vì quyền lợi của phân xưởng, của anh em. Có một nguyên lý gần như bất di bất dịch: nịnh trên thì đáp dưới, “đấu” trên thì thương dưới.
Hãy nghe Hai Cũ nói:
“... Tôi “đấu” cho đến khi lập được phân xưởng mới nghe. Chợ Lớn thứ gì cũng có, đúc vô hộp đề nhãn hiệu nào Nhật nào Ý, mấy lão trong sở thà mua những thứ dịch vật đó về xài ít bữa rồi quăng bỏ, còn hơn mua đồ tốt mình sản xuất, lão sợ xưởng mình giàu, sợ thợ mình giỏi, mấy lão sợ hết chỗ xài cái dốt của mấy lão...”.
Hai Cũ là người của hành động, của quần chúng, tác giả miêu tả với những chi tiết sống thực, với nhiều tâm huyết, nhân vật hiện lên sống động ta gặp không thiếu gì trong thành phố sau ngày giải phóng.
Chân dung một quản đốc đã được dựng thành phim với tên Ông Hai Cũ, tên nhân vật chính trong truyện. Phim rất thành công, tiểu thuyết cũng đã được giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam. Tác giả nhận giải thưởng Nhà nước năm 2001 cũng với tác phẩm này.
Văn là người. Văn Trần Bạch Đằng chính là con người ông. Hai Cũ là con người ông. Ý chí chiến đấu, hành động không ngơi nghỉ, dấn thân, dũng cảm, hòa đồng với quần chúng. Trần Bạch Đằng sáng tác nhiều, có cảm giác với vốn sống dồi dào ông còn có thể viết gấp nhiều lần như thế.
Bình luận (0)