Ông không lấy làm ngạc nhiên về nhận xét của tôi, mà còn tươi cười nói thêm: “Nếu rút lại 5, ngũ hổ thơ ca chắc vẫn không loại Huy Cận ra ngoài được đâu!” Ông quả là một nhà thơ đầy tự tin về tài năng thơ ca của chính mình.
Huy Cận xuất hiện trên thi đàn Thơ Mới cuối những năm ba mươi, khi đang là sinh viên của Trường Cao đẳng Nông Lâm và làm xôn xao làng thơ bằng tập thơ đầu tay Lửa thiêng in năm 1940. Hai năm sau, ông xuất bản liên tiếp tập thơ Vũ trụ ca và tập văn xuôi Kinh cầu tự, khẳng định tài năng văn chương khi vừa bước qua tuổi 20. Vừa đi học, vừa làm thơ, vừa bí mật hoạt động cách mạng đến tháng 7-1945, ông được tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) và cùng Trần Huy Liệu vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại, chấp nhận sự thoái vị của ông vua cuối cùng triều Nguyễn. Có thể nói, Huy Cận là nhà thơ đầu tiên giữ chức bộ trưởng trong chính phủ mới (Bộ Canh Nông). Từ đó ông luôn là một quan chức cao cấp với nhiều chức danh khác nhau: Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Thứ trưởng Bộ Kinh tế, Thứ trưởng Tổng Thư ký Hội đồng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách văn hóa - thông tin tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.
Nhà thơ Huy Cận tên thật Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng Tháng Tám, Huy Cận đã theo học hết bậc tú tài ở Huế, tốt nghiệp Cao đẳng Nông Lâm... Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, ông đã tham gia hoạt động văn học. Năm 1936, Huy Cận có viết trên Tràng An, Sông Hương (bút danh Hán Quỳ), năm 1938 đăng thơ ở Ngày nay. Năm 1940, xuất bản tập Lửa thiêng được thi đàn đánh giá là người đã đem một phong cách thơ, một hồn thơ mới lạ, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng trong sự nghiệp thơ của Huy Cận. Từ tháng 7-1945 đến tháng 9-1984, nhà thơ Huy Cận giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Ông trở thành hội viên Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1957. Năm 1996, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho các tác phẩm thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em, Cô gái Mèo, Chiến trường gần đến chiến trường xa, Ngày hằng sống, ngày hằng thơ, Ngôi nhà giữa nắng, Hạt lại gieo. Ông qua đời tại thủ đô Hà Nội, lúc 20 giờ 53 phút ngày 19-2-2005 (nhằm ngày 11 tháng giêng năm Ất Dậu), thọ 86 tuổi. |
Đọc được một bài thơ hay của lớp trẻ trên báo, ông không tiếc lời khen. Có lần, ông thích bài Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn tôi viết về tài năng thi ca của nhạc sĩ họ Trịnh, thế là lần nào gặp tôi, ông cũng nói một câu đầy cảm động: “Cảm ơn Trọng Tạo đã cho Huy Cận biết Trịnh Công Sơn là một nhà thơ”. Tôi đùa ông: “Em đã nghe anh “cảm ơn” mấy lần rồi mà!” Ông cười: “Khi mình đã thích thì cảm ơn bao lần cũng không thừa đâu”. Có hôm Huy Cận ghé vào phòng làm việc của tôi và đưa ra một ý kiến khá bất ngờ, ông nói rằng ông muốn đề nghị đuổi hai từ “thông cảm” ra khỏi từ điển tiếng Việt. Chả là khi đó người ta đang xử một vụ án lớn tham ô tham nhũng thất thoát hàng nghìn tỉ đồng và phạm nhân muốn được... thông cảm về trình độ quản lý non kém của họ. Sau ý nghĩ đó, ông lại nói thật vui: “Chỉ tội ăn cắp sách hay là có thể tha thứ được”.
Một con người giản dị mộc mạc như thế lại là một thi sĩ mang tư duy vũ trụ với một ngôn ngữ cao sang, chắt lọc hiếm thấy ở đời. Người Việt Nam không mấy ai không thuộc những bài thơ thật hay của ông như Tràng giang, Đường thơm, Các vị La Hán chùa Tây Phương... Thơ ông có sầu đau và bi tráng, có thanh cao và hương thơm, có phận kiếp và cảm quan vũ trụ. Gần 20 tập thơ đã được xuất bản, dù có tập có bài rơi rụng theo thời gian, nhưng những gì còn lại của thơ ông cũng đủ để làm nên một ngọn Thi Sơn Huy Cận thật đáng trận trọng.
Bình luận (0)